Bài 4: QUẢN TRỊ KINH DOANH CỦA BÁCH KHOA NÓ KHÁC KINH TẾ NHIỀU LẮM

Học kinh tế trong trường kỹ thuật nên tụi mình được trang bị rất nhiều các kỹ thuật tính toán để sau này giúp nhà quản lý đưa ra quyết định dựa trên những con số được đo lường một cách định lượng. Môn học chuyên ngành ở năm 1 mà sinh viên Quản lý nào cũng hứng thú sau những mệt mỏi các môn đại cương của trường là toán kinh tế ứng dụng và quy hoạch tuyến tính được thầy Cao Hào Thi nguyên trưởng khoa Quản lý Công nghiệp trực tiếp giảng. Bài toán xe buýt của thành phố được Thầy đưa ra cho tụi mình giải quyết, yêu cầu đơn giản là xây dựng các tuyến xe buýt làm sao người dân trong thành phố ở bất cứ nơi đâu đều có thể dễ dàng bắt được xe buýt đi đến tất cả các điểm họ muốn trên địa bàn Hồ Chí Mình. Mới cách đây mấy tháng tụi mình lay hoay với các hệ phương trình 2, 3 ẩn giờ này đứng trước bài toán có hàng trăm thậm chí hàng nghìn biến và thiết thực của cuộc sống. Với 1 buổi học Thầy đã hướng dẫn cho tụi mình những cách để bóc tách vấn đề và phương pháp toán học để xử lý bài toán quy hoạch tuyến tính với hàng trăm biến như vậy ngay trên phần mềm quy hoạch tuyến tính. Học kinh tế ở Bách khoa giải quyết vấn đề dựa trên con số định lượng là như vậy đấy, không suy luận logic dựa trên những kinh nghiệm của người lãnh đạo hay chuyên gia để đưa ra quyết định mà lấy dữ liệu thực tế dựa trên những phương pháp đã được kiểm chứng, lựa chọn mô hình phù hợp với thực tại cho số liệu vào xử lý và đưa ra hướng giải quyết tình huống dựa trên kết quả xử lý của số liệu thực tế.

Phần mềm Quy hoạch tuyến tính

Trong tiềm thức các bạn học sinh sinh viên hễ nhắc đến giảng đường Bách khoa mọi người cứ tưởng sẽ là khô khan tối ngày phải tính toán với những con số, nhắc đến trường Nhân Văn thì sẽ lãng mạn với những giai điệu văn chương lai láng, hay khi nhắc đến trường Kinh tế thì nghĩ ngay đến sự tự tin, tăng động của các bạn sinh viên kinh tế. Ở các trường khác thì mình không biết thực hư như thế nào nhưng riêng tại Bách khoa Tp.HCM những suy nghĩ này đã xa xưa rồi, ngay tại nhà B10 của trường các bạn dễ dàng hoà nhập với các sinh viên ở đây, họ thực sự năng động, sáng tạo tự tạo cho mình những sân chơi riêng đặt thù từng ngành học và mang dáng dấp của Bách khoa. Khi tiếp chuyện với các bạn sinh viên Quản lý Công nghiệp họ luôn cởi mở hoà đồng với mọi người, nói chuyện lưu loát tự tin trình bày vấn đề trước đám đông mà không một chút ngần ngại rụt rè. Điển hình chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này qua các chương trình tư vấn tuyển sinh dành cho các em học sinh cấp 3 các anh chị đàn anh sẵn sàng tư vấn cho các em học sinh về nghề nghiệp tương lai của ngành mình đang học, hay chương trình ngày hội việc làm cho các bạn sinh viên sắp ra trường, các cuộc thi sáng tạo hay các hội thao giao lưu giữa các khoa trong trường hay giữa các khoá với nhau trong cùng 1 khoa. Tất cả các hoạt động này của trường thì sinh viên ngành Quản lý Công nghiệp luôn nắm vị trí nòng cốt đứng ra tổ chức, chương trình mang dấu ấn sinh viên Quản lý Công nghiệp qua các thế hệ học trò của khoa là Đêm Hội Quản Lý.

Bài giảng môn visua basic

Một điểm hoàn toàn khác biệt mà tụi mình phải học ở đây mà các trường dạy về quản trị kinh doanh khác không có đó là dạy lập trình cho sinh viên quản lý, tất nhiên ở mức độ không phải chuyên sâu như các bạn bên ngành công nghệ thông tin rồi. Ngôn ngữ lập trình tụi mình được học khi đó là Visual Basic căn bản, hồi phổ thông giải phương trình bậc 2 bậc 3 bằng máy tính cá nhân cũng là siêu lắm rồi giờ đây tụi mình tự lập trình trên máy tính để người dùng chỉ cần nhập các thông số của phương trình vào thì máy cho ra lời giải từng bước giống như mình giải tay chứ không trả đáp số như trên máy tính cá nhân. Đến bây giờ đi làm trong môi trường công nghệ ngày nay thì mình đã hiểu không phải ngẫu nhiên mà Khoa phải trang bị cho sinh viên những kiến thức như vậy, những bài tập lập trình vỡ lòng thời sinh viên ấy giúp mình rất nhiều trong việc viết mô tả một quy trình bán hàng phải làm sao để các bạn Dev hiểu và xây dựng phần mềm bán hàng cho tổ chức.

Ngô Thông

Bài 1: TÔI ĐẾN VỚI ĐẠI HỌC BÁCH KHOA NHIỀU TRẮC TRỠ NHƯNG CŨNG LÀ CÁI DUYÊN

Bài 2: HỌC KINH TẾ Ở TRƯỜNG KỸ THUẬT NÊN PHẢI CÀY NHIỀU LẮM

Bài 3: HỌC QUÂN SỰ PHẢI Ở LẠI THAO TRƯỜNG MỚI VUI

Bài 5: HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ và CÔNG TÁC XÃ HỘI CỦA BÁCH KHOA

Bài Cuối: CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỦA KHOA TRANG BỊ NHIỀU KỸ NĂNG CHO NGƯỜI HỌC

Nhận hướng dẫn nghiên cứu thị trường, phân tích SPSS

Giới thiệu SPSS

Dịch vụ này mình mở ra nhằm giúp những anh chị học viên sau đại học bao gồm cao học và tiến sĩ xử lý dữ liệu thống kê khối ngành kinh tế xã hội.

Các trường dạy về khoa học xã hội hầu như trường Đại học nào cũng ít nhiều giới thiệu về phần mềm SPSS đến với học viên. SPSS là gì mà các trường Đại học phải dạy cho học viên, xin mời các bạn quan tâm thì đọc bài viết giới thiệu về SPSS tại đây.

Trong bài viết này tôi muốn giới thiệu đến quý anh chị học viên sau Đại học ở các ngành kinh tế xã hội một dịch vụ mà tôi có dịp được tìm hiểu và bây giờ chia sẻ lại giúp các anh chị học viên sau đại học hoàn thành khóa học của mình ở trường. Trong xã hội không giống như trong kỹ thuật có máy móc phương tiện để đo đạt, trong xã hội muốn đo lường sự hài lòng của khách hàng với một dịch vụ của Ngân hàng thì không có cái máy nào phát minh ra để làm chuyện này cả. Như vậy chỉ còn cách là đi hỏi khách hàng hiện tại họ có hài lòng về dịch vụ Ngân hàng hay không? Khi đi hỏi khách hàng thì 9 người 10 ý như vậy chúng ta biết nghe theo ý của ai để cải tiến dịch vụ của ngân hàng bây giờ? Như vậy phải nhờ đến thống kê để xử lý dữ liệu thu thập từ khách hàng, từ đó chúng ta tìm ra được gốc rễ của vấn đề là thực sự chúng ta có những điều gì khiến khách hàng chưa thực sự hài lòng ở dịch vụ hiện nay.

Một ngân hàng thì có thể có đến hàng triệu khách hàng, để biết chính xác nhất khách hàng hài lòng dịch vụ của ngân hàng thì chúng ta đi hỏi tất cả khách hàng này nhưng vì giới hạn về thời gian cũng như nguồn lực nên không thể nào hỏi hết cả triệu khách hàng được. Như vậy chúng ta đi hỏi bao nhiêu khách hàng là vừa? một câu hỏi không đơn giản và các học viên sau đại học cũng đau đầu cho việc thu thập bao nhiêu mẫu thì có thể phân tích được bài nghiên cứu của mình. Việc chọn mẫu nghiên cứu hiện nay có 2 phương pháp đó là phương pháp xác xuất và phương pháp phi xác suất. Thông thường trong các nghiên cứu xác hội người ta hay chọn phương pháp phi xác suất vì giới hạn về điều kiện cũng như thời gian nghiên cứu. Tôi sẽ trình bày chi tiết về 2 phương pháp này trong một topic khác hoặc bạn nào quan tâm liên hệ tôi qua email giasuvanthong@gmail.com.

Quy trình các bước thực hiện cho một nghiên cứu loại này thông thường thực hiện thông qua 2 bước chính đó là Nghiên cứu sơ bộ sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu chính thức sử dụng phương pháp định lượng được mô tả như hình bên dưới. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện bằng nghiên cứu định tính với kỹ thuật thảo luận nhóm chuyên gia và phỏng vấn thử khách hàng. Nghiên cứu chính thức được sử dụng bằng phương pháp nghiên cứu định lượng. Thông tin thu thập về được xử lý bằng phần mềm SPSS. Thang đo sau khi được đánh giá bằng phương pháp kiểm tra độ tin cậy Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích hồi quy được sử dụng để kiểm định giả thuyết.

Đây là một quy trình nghiên cứu thị trường do thầy Nguyễn Đình Thọ đề xuất và đang được giảng dạy trong các trường kinh tế hiện nay. Trong quy trình xử lý dữ liệu định lượng này có 3 bước phân tích quan trọng đó là:

  1. Phân tích Cronbach alpha. Yêu cầu hệ số Cronbach alpha > 0.65 hoặc 0.7; Hệ số tương quan biến tổng phải lớn hơn 0.3
  2. Phân tích nhân tố khám phá. Các chỉ số phải đạt được như KMO, Sig, Phương sai trích, Hệ số tải, Độ phân biệt giữa các nhóm, Sự hội tụ của các nhân tố
  3. Phân tích hồi quy tuyến tính. Các chỉ số phải đạt được như Sig <0.05, R2 >50%, VIF <10

Tôi sẽ hướng dẫn các bạn chi tiết các bước thực hiện theo quy trình này cũng như cách thức xử lý số liệu đọc các chỉ số thống kê dữ liệu chạy ra có ý nghĩa như thế nào đến thực tế. Xin lưu ý đây là các bước thực hiện của một nghiên cứu cơ bản nhất, còn rất nhiều kiểm định nhằm trả lời những câu hỏi khó hơn của nhà nghiên cứu, nếu các bạn quan tâm hãy liên hệ để chúng tôi giúp bạn một cách nhanh nhất.

Mọi chi tiết liên hệ Gia Sư Văn Thông

email: giasuvanthong@gmail.com

Điện thoại: 0937503268

Bài 1: Khai báo và nhập liệu trên SPSS

Bài 2: Biên tập số liệu trên SPSS

Hướng dẫn sử dụng SPSS 20.0

 

Bài 2: Biên tập số liệu trên SPSS

Biên tập số liệu trên SPSS

Bài 1: Khai báo và nhập liệu trên SPSS

Sau khi chúng ta đưa dữ liệu thô vào SPSS, bạn dễ dàng thấy rằng dữ liệu đó có thể bị lỗi trong lúc nhập liệu hoặc dữ liệu hiện tại tổ chức không theo cách chúng ta muốn phân tích. Một cách để chúng ta giảm bớt lỗi xảy ra trong quá trình nhập liệu và tổ chức lại dữ liệu để chúng ta dễ dàng làm việc và đọc dữ liệu hơn. Phần này sẽ giúp bạn một số phương pháp để biên tập dữ liệu mà không làm mất thông tin.

I. Sorting Cases

Giống như trong Excel chúng ta có thể thay đổi thứ tự các dòng dữ liệu để chúng sắp xếp theo như ý muốn. Chúng ta có thể sắp xếp dữ liệu của trường nào đó theo thứ tự tăng dần hoặc giảm dần. Ví dụ chúng ta sắp xếp để dữ liệu sao cho biến GIOITINH hiển thị những dòng đầu tiên là nam và những dòng sau cùng là nữ trong đó sắp xếp để dữ liệu hiển thị biến TUOI giảm dần theo độ tuổi của người trả lời. Lưu ý chúng ta không bị giới hạn số biến đưa vào sort bạn có thể đưa vào biến thứ ba thứ tư nếu cần thiết.

Chúng ta muốn sắp xếp dữ liệu trong ví dụ ban đầu theo điều kiện GIOITINH hiển thị những dòng đầu tiên là nam và những dòng sau cùng là nữ và biến DOTUOI người trả lời giảm dần
1. Dữ liệu được mã hóa và nhập như hình bên dưới

Hình 1: Dữ liệu chưa phân loại

2. Vào Data ➪ Sort Cases lúc này cửa sổ hiện ra bạn chọn biến cần sort

Hình 2: Cửa sổ Sort cases

3. Chọn Ascending để sort theo đều kiện tăng dần và Deascending theo điều kiện giảm dần

Hình 3: Kết quả data sau khi sort theo điều kiện biến giới tính tăng giần và tuổi giảm dần

Như vậy chúng ta đã sắp xếp dữ liệu lại theo đúng cách chúng ta muốn nó xuất hiện dĩ nhiên dữ liệu hiển thị sau khi chúng ta sắp xếp lại không ảnh hưởng đến việc phân tích dữ liệu.

Thứ tự các biến được vào sort rất quan trọng. Trong ví dụ trên biến GIOITINH được chọn vào sort đầu tiên và TUOI là biến thứ hai, trong SPSS cách sắp xếp này sẽ chạy: Những người trả lời giới tính là Nam (mã hóa là 1) sẽ đứng đầu và được sắp xếp theo tuổi giảm dần. Sau đó là Nữ (mã hóa là 2) sẽ đứng sau và cũng được sắp xếp theo tuổi giảm dần.

II. Đếm số lần xuất hiện – Counting Case Occurrences

Nếu dữ liệu của chúng ta đang dùng để theo dõi nhiều sự kiện tương tự – chẳng hạn khảo sát khách hàng đang sử dụng những dịch vụ nào của ngân hàng hoặc khảo sát khách hàng đang đọc những tạp chí nào trong một ngày. Đây là loại câu hỏi có nhiều lựa chọn trả lời rất hay gặp trong một nghiên cứu thị trường. SPSS sẽ giúp chúng ta tạo ra một biến mới và đếm các giá trị đó một cách nhanh chóng.

Trong ví dụ sau, khảo sát khách hàng đang đọc những tạp chí nào trong một ngày, tên tạp chí khảo sát được mã là TC1, TC2, TC3, TC4 kết quả trả lời có đọc là 1 và không đọc là 0. Các bước thực hiện trên SPSS như bên dưới sẽ giúp chúng ta đếm tổng số lượng tạp chí đã đọc trong 1 ngày của mỗi người.

1. Dữ liệu được mã hóa và nhập như hình bên dưới


Hình 4: Dữ liệu người đọc tạp chí, giá trị 1 là có đọc và giá trị 0 là không đọc

2. Trên thanh menu vào Transform➪Count Values Within Cases cửa sổ xuất hiện như hình bên dưới.

Hình 5: Cửa sổ đếm số lần xuất hiện

3. Chọn tên của các biến mà chúng ta muốn đếm, sau đó click vào mũi tên để di chuyển chúng từ bảng điều khiển bên trái vào ô Variables.

Tại ô Target Variables chúng ta đặt tên cho biến mới tạo ra trong ví dụ này đặt tên mới là TapChi và ô Target Label chúng ta đặt nhãn cho biến mới tạo ra trong ví dụ này là Dem so tap chi da doc

Hình 6: Các biến đã chọn để được đếm và biến mới tạo ra được đặt tên

4. Chọn Define Values cửa sổ xuất hiện như hình bên dưới

Trong cửa sổ này chúng ta khai báo giá trị cần đếm của các biến đã chọn ở bước 3 trong ô Value. Trong ví dụ của chúng ta giá trị cần đếm là 1 – có đọc tạp chí

Như bạn thấy trong hình bên dưới chúng ta cũng có thể đếm các giá trị bị thiếu – missing values và khoảng giá trị ranges of values. Trong khoảng giá trị bạn có thể chỉ định giá trị lớn nhất và nhỏ nhất (click chọn nút Range và chọn giá trị lớn nhất và nhỏ nhất) hoặc bạn có thể chỉ định một vế là lớn nhất (click chọn nút Range Value Though HIGHTEST) hoặc nhỏ nhất (click chọn nút Range LOWST Though Value) trong tập dữ liệu. Trong thực tế bạn có thể chọn thêm một số tiêu chí và SPSS sẽ kiểm tra từng biến với tất cả tiêu chí chúng ta yêu cầu

Hình 7: Thiết lập tiêu chí để giá trị nào được đưa vào đếm

5. Chọn giá trị mà bạn muốn đếm sau đó nhấn Add để đưa giá trị cần đếm qua ô Values to Count. Lặp lại nếu cần để xác định các tiêu chí cần đếm

Biến mới được sinh ra với tên được chúng ta đặt ở bước 3 và có giá trị phù hợp với ít nhất một trong các tiêu chí mà chúng ta chỉ định. Mỗi trường hợp được tính riêng
6. Nhấn nút Continue sẽ quay lại màn hình ở bước 3 và nhấn nút OK để kết thúc

Kết quả biến mới được tạo ra như hình bên dưới

Hình 8: Biến mới TapChi chứa giá trị là tổng số tạp chí được đọc

III. Mã hóa lại biến – Recoding Variables

Với SPSS chúng ta có thể thay đổi bất kỳ giá trị cụ thể nào của biến theo các quy tắc mà mình đưa ra. Ví dụ, biến giới tính bạn đang mã hóa như sau: 1 – Nam, 2 – Nữ, bây giờ bạn có thể thay đổi mã hóa này lại thành 0 – Nam và 1 – Nữ. Chúng ta có thể mã hóa lại các giá trị của biến và thay thế biến hiện tại mà không cần tạo ra biến mới, hoặc chúng ta có thể tạo ra biến mới với các mã hóa là giá trị mình đưa ra. Với việc làm này thì việc sửa lỗi hoặc làm cho dữ liệu chúng ta dễ dàng sử dụng hơn trong phân tích sau này.

III.1. Mã hóa lại trên cùng một biến- Recoding into the same variables

Khi bạn muốn mã hóa lại giá trị của biến và ghi đè lên biến cần mã hóa lại mà không cần tạo ra biến mới, để chắc chắn bạn nên copy file dữ liệu thành một file mới trước khi bạn bắt đầu. Các thay đổi đối với dữ liệu ban đầu của bạn không thể khôi phục lại được, dữ liệu ban đầu của bạn về biến cần mã hóa lại sẽ bị thay đổi.

Ví dụ sau đây là danh sách các cá nhân được mới tham gia một sự kiện. Nếu họ trả lời là sẽ tham gia thì giá trị được mã hóa là 1, nếu họ trả lời không tham gia thì giá trị mã hóa là -1. Những người chưa có câu trả lời thì được mã hóa là 0. Khi ngày xảy ra sự kiện, chúng ta quyết định chuyển đổi tất cả các câu trả lời -1 thành 0 để có được số người không đến tham dự. Đây là cách thực hiện trên SPSS1.

1. Dữ liệu được mã hóa và nhập như hình bên dưới 

Hình 9: Danh sách tên người được mời và khả năng tham gia của họ

2.Trên thanh menu vào Transform➪Recode into Same Variables

Chọn biến cần mã hóa lại ở ô bên trái và click vào dấu mũi tên để di chuyển biến đó qua ô Numeric Variabes, ví dụ như hình bên dưới

 Hình 10: Biến được chọn đưa vào recoding

3. Click vào nút Old and New Values cửa sổ mở ra như hình bên dưới 

Hình 11: Xác định giá trị cũ được thay bằng giá trị mới của biến

Ở cửa sổ này phần Old Value là giá trị hiện tại của biến ta đã mã hóa nhập liệu và phần New Value là giá trị mới của biến mà chúng ta cần thay thế.

Như bạn thấy trong hình trên ở mục Old Value chúng ta có thể:

  • Thay đổi một giá trị cụ thể nào đó thành giá trị mới bằng cách click vào ô Value để chọn giá trị hiện tại cần thay thế và ánh xạ với nó bên phần New Value bạn nhập giá trị mới cần thay thế, nhấn nút Add để thêm;
  • Hoặc những giá trị bị thiếu ở ô System-missing và ánh xạ với nó bên phần New Value bạn nhập giá trị mới cần thay thế, nhấn nút Add để thêm;
  • Hoặc khoảng giá trị cũ Range Trong khoảng giá trị bạn có thể khai báo giá trị lớn nhất và nhỏ nhất (click chọn nút Range và chọn giá trị lớn nhất và nhỏ nhất) hoặc bạn có thể khai báo một vế là lớn nhất (click chọn nút Range Value Though HIGHTEST) hoặc nhỏ nhất (click chọn nút Range LOWST Though Value) trong tập dữ liệu cần thay đổi và ánh xạ với nó bên phần New Value bạn nhập giá trị mới cần thay thế, nhấn nút Add để thêm;
  • Hoặc tất cả các giá trị cũ All other values và ánh xạ với nó bên phần New Value bạn nhập giá trị mới cần thay thế, nhấn nút Add để thêm.

4. Sau khi bạn đã nhập tất cả các ánh xạ (trong ví dụ này nó chỉ là -1 chuyển thành 0), hãy nhấp vào Continue quay lại màn hình ở bước 2 và nhấn nút OK để kết thúc.

Tất cả giá trị -1 được thay thế bằng giá trị 0 kết quả như hình bên dưới biến TraLoi đã được mã hóa lại

Hình 12: Tất cả các giá trị -1 được mã lại thành 0

III.2 Mã hóa lại và tạo ra biến mới – Recoding into different variables

Có thể bạn không muốn biến cũ bị mất giá trị ban đầu nhưng bạn muốn biên tập lại biến cũ. Các bước sau đây thực hiện tương tự như bước Recoding into the same variables, các giá trị được chỉnh sửa sẽ lưu trong một biến mới

1. Dữ liệu được mã hóa và nhập như ví dụ ở mục 1.2.3.1 (hình 33). Trên thanh menu vào Transform➪Recode into Different Variables.

2. Trong bảng điều khiển bên trái, chọn biến giữ giá trị mà bạn muốn thay đổi ở ví dụ này là biến TraLoi. Sử dụng mũi tên ở giữa, di chuyển tên biến đến bảng điều khiển ở giữa.

3. Ở bên phải màn hình vùng Output Variable chúng ta đặt tên và nhãn cho biến mới
Ở phần này chúng ta đặt tên cho biến mới (do đó biến mới sẽ được sinh ra) hoặc chúng ta chọn tên biến hiện có trong tập dữ liệu khi đó các gia trị sẽ được ghi đè lên

4. Click vào nút Change và biến đầu ra được định nghĩa, như thể hiện trong hình bên dưới

Hình 13: Biến mới được đặt tên để nhận các giá trị được recoded.

5. Click vào nút Old and New Values button cửa sổ mở ra như hình bên dưới

Hình 14: Tất cả các giá trị được khai báo lại cho biến mới

Ở cửa sổ này phần Old Value là giá trị hiện tại của biến ta đã mã hóa nhập liệu và phần New Value là giá trị mới của biến mà chúng ta cần thay thế.

Trên ở mục Old Value chúng ta nhập giá trị hiện tại vào ô Value và giá trị bạn muốn trở thành ở ô Value của mục New Value. Ngoài ra trên mục New Value bạn có thể khai báo giá trị hiện tại là giá trị bị thiếu Missing Value cho biến mới ở ô System – missing hoặc bạn có thể giữ nguyên giá trị hiện tại bằng cách click vào ô Coppy old value, nhấn nút Add để thêm

6. Click vào nút Continue quay lại màn hình ở bước 4 và nhấn nút OK để kết thúc.

Kết quả biến mới được sinh ra như thể hiện ở hình bên dưới. Chú ý rằng tất cả các con số đều có hai chữ số bên phải dấu thập phân. Điều này có thể làm bạn khó theo dõi, nhưng biến mới đã được tạo ra tự động và đó là một phần của mặc định của chương trình và bạn có thể vào Variable View để khai bao lại số chữ số phần thập phân bạn muốn hiên thị.


Hình 15:  Biến mới được sinh ra với các giá trị đã được ghi lại

 

Trên đây là các cách giúp chúng ta biên tập số liệu trên phần mềm SPSS, hy vọng với bài viết này giúp cho các bạn tổ chức lại dữ liệu theo cách mình muốn ngay trên SPSS mà không cần copy dữ liệu ra và thao tác trên Excel rồi đưa vào lại SPSS. Ngoài các cách mình đã giới thiệu, trong SPSS còn một cách mã hóa tự động nữa đó là  Automatic recoding, với những hướng dẫn của mình trình bày ở trên thì việc thực hiện Automatic recoding trong SPSS sẽ rất dễ dàng nên các bạn tự khám phá thêm nhé

Trong thời gian tới  mình sẽ cố gắng viết tiếp những hướng dẫn cơ bản để giúp các bạn sinh viên dễ dàng thao tác và hiểu những con số xuất ra từ SPSS các bạn theo dõi blog này của mình để tiếp tục cập nhật những bài viết mới nhất nhé

<<còn tiếp>>

 

Hướng dẫn sử dụng SPSS phần 1

Hôm nay 28/11/2015 mình chia sẽ với các bạn đang làm đề tài về cách sử dụng phần mềm SPSS để phân tích số liệu cho đề tài luận văn tốt nghiệp, mình xin gửi file trình bày lên đây để các bạn có thể theo dõi những nội dung mình trình bày. Phần trình bày hôm nay gồm các nội dung như bên dưới, chi tiết xem file đính kèm tại đây

HDSD_SPSS_Phan 1

Bang cau hoi

Data_Huong dan

Đây là bài chia sẽ những kiến thức của mình cho các bạn sinh viên đang làm luận văn tốt nghiệp, nếu có gì thiếu sót xin mình xin đón nhận những góp ý của mọi người hoặc comment bên dưới hoặc email cho mình ngothong1988@gmail.com

Xin cám ơn

1. GIỚI THIỆU PHẦN MỀM SPSS

2.QUY TRÌNH THỰC HIỆN MỘT NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG

3.CÁC LOẠI THANG ĐO, NHẬN DIỆN PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH

4.KHAI BÁO, NHẬP LIỆU

5.XÁC ĐỊNH LỖI VÀ LÀM SẠCH DỮ LIỆU

6.THỐNG KÊ MÔ TẢ MẪU

7.XỬ LÝ CÂU HỎI NHIỀU LỰA CHỌN

8.CÁC BƯỚC VẼ BIỂU ĐỒ

Bài 1: Khai báo và nhập liệu trên SPSS

Cách hiển thị giá trị trên đồ thị trong SPSS

Tiếng kẻng an ninh

Nhằm phòng chống trộm cắp tội phạm ở địa phương UBND xã đã phát động phong trào “tiếng kẻng an ninh” để mỗi khi người dân phát giác tội phạm dùng tiếng kẻng để kêu gọi mọi người trong thôn tham gia truy bắt tội phạm.

Tiếng kẻng anh ninh được làm bằng ống tre, cây tre chọn làm kẻng được chọn lọc kỹ càng tre phải to ống và phải già như vậy khi làm kẻng thì đánh vào thì tiếng kẻng phát ra âm thanh to và vang vọng. Ống tre làm kẻng được cưa lấy mắc bằng 2 đầu chuốt mắc cho mượt sau đó khoét một lỗ nhỏ và dài dọc theo ống nhằm khi gõ kẻng phát ra âm vang xa hơn ngoài ra có cái lỗ như vậy để tiện cất giữ dùi đánh kẻng. Hai đầu ống tre buộc một sợi dây để tiện lúc mang kẻng khi đánh và truy bắt tội phạm.

Dùi kẻng cũng làm bằng tre yêu cầu phải là gốc tre như vậy thì cái dùi kẻng mới rắn chắc đánh vào kẻng mới kêu to và vọng. Thanh tre được cắt ngắn tầm 3 gang tay sau đó chuốt cho tròn không to cũng không nhỏ quá, theo quan sát của tôi cái dùi kẻng tôi chụp được nhà hàng xóm thì to bằng ngón tay cái người lớn.

Song song với kẻng thì có một sợi dây dừa tầm khoản 2m đề phòng khi bắt được tội phạm thì dùng dây này để trói tội phạm chờ Công an địa phương tới xử lý.

Để người dân thuần thục việc dùng kẻng UBND xã tổ chức một đợt tập huống trong thôn. Tình huống giả định là vào khoản 10h tối một kẻ trộm đột nhập vào chuồng heo để bắt trộm gà nhà bà Ba. Nghe tiếng gà quát lên bà Ba liền dùng kẻng gõ báo trộm kêu gọi sự giúp đỡ của hàng xóm. Khi nghe được tiếng kẻng phát ra từ nhà bà Ba cả xóm đều tỉnh giấc người người mang kẻng ra đường đánh thức cả xóm dậy dùng kẻng đánh inh tai, cuối cùng một hồi đánh kẻng thì kẻ trộm mặt dù là giả định nhưng cũng được chạy thoát.

Hy vọng với tiếng kẻng an ninh này quê tôi bớt đi trộm vặt.

NTDSC_0732

DSC_0733DSC_0734

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 3

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 1

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 2

Có lẽ phần quan trọng nhất của một bài báo khoa học là phần phương pháp. Kinh nghiệm làm biên tập của tôi cho thấy tập san tôi tham gia phụ trách trong ban biên tập (tập san Journal of Bone and Mineral Research) từ chối khoảng 75% những bài báo gửi đến; trong số bài báo bị từ chối, gần 70% là do khiếm khuyết trong phần phương pháp. Tôi đã thấy và đọc rất nhiều bài báo gửi đến cho tập san mà kết quả rất thú vị, nhưng đành phải từ chối vì phần phương pháp được mô tả quá sơ sài, hay mô tả một cách xem thường người đọc.

Có thể tác giả không có ý xem thường ai, nhưng vì cách viết và trình bày chưa đạt chuẩn mực nên gây ra ấn tượng đó. Trong phần 3 này, tôi sẽ chỉ các bạn viết phần phương pháp một cách chuẩn mực và chắc chắn sẽ không bị ai phê bình là … viết dở. 🙂

Phương pháp (Methods)

Phần phương pháp nghiên cứu có lẽ là phần quan trọng nhất trong một bài báo khoa học. Khoảng 70% bài báo khoa học bị từ chối chỉ vì phương pháp nghiên cứu không thích hợp hay sai lầm. Nhiều người đọc có thói quen đọc phương pháp trước, rồi sau đó họ đọc các phần khác. Nếu họ thấy phương pháp nghiên cứu có chất lượng, họ sẽ đọc tiếp; nếu không, họ sẽ bỏ qua một bên! Do đó, đây là phần mà tác giả cần phải đầu tư nhiều thì giờ để viết cho “đạt”.

Trong phần phương pháp, tác giả phải trả lời cho được câu hỏi: “tác giả đã làm gì” (Whatdid you do?) Để trả lời câu hỏi này, tác giả phải cung cấp thông tin về thiết kế nghiên cứu, bệnh nhân (hay đối tượng nghiên cứu), phương pháp đo lường, độ tin cậy và chính xác của đo lường, phương pháp phân tích dữ liệu. Do đó, phần phương pháp nghiên cứu có thể có những tiêu đề nhỏ như sau:

Thiết kế nghiên cứu (studydesign). Phát biểu ngằn gọn về mô hình nghiên cứu. Đây là câu văn đơn giản, nhưng nói lên giá trị khoa học của công trình nghiên cứu. Ví dụ: “The study was designed as a cross- sectional investigation, in which 210 women aged between 50 and 85 were randomly sampled by the cluster sampling scheme.”

Đối tượng tham gia (Participants). Thông tin về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu đóng vai trò quan trọng để người đọc có thể đánh giá khả năng khái quát hóa của công trình nghiên cứu. Khi mô tả đặc điểm đối tượng nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn và tiêu chuẩn loại. Đôi khi tác giả cần phải các biến số quan trọng như độ tuổi, giới tính, sắc tộc, trình độ học vấn, tình trạng sức khỏe. Ví dụ: “All women requesting an IUCD (intrauterine contraceptive device) at the Family Welfare Clinic, Kenyatta National Hospital, who were menstruating regularly and who were between 20 and 44 years of age, were candidates for inclusion in the study. They were not admitted to the study if any of the following criteria were present: (1) a history of ectopic pregnancy, (2) pregnancy within the past 42 days, (3) leiomyomata of the uterus, (4) active PID (pelvic inflammatory disease), (5) a cervical or endometrial malignancy, (6) a known hypersensitivity to tetracyclines, (7) use of any antibiotics within the past 14 days or long-acting injectable penicillin, (8) an impaired response to infection, or (9) residence outside the city of Nairobi, insufficient address for follow-up, or unwillingness to return for follow-up.”

Địa điểm và bối cảnh nghiên cứu (setting). Cần phải cung cấp thông tin về địa điểm mà công trình nghiên cứu được thực hiện, hay nơi mà dữ liệu được thu thập, bởi vì địa điểm có thể ảnh hưởng đến tính hợp lí ngoại tại của kết quả nghiên cứu. Chẳng hạn như khi chúng tôi làm nghiên cứu về vitamin D, chúng tôi phải cung cấp thông tin về thành phố mà mình thực hiện công trình nghiên cứu. Ví dụ: “The study was designed as a cross-sectional investigation, in which the setting was Ho Chi Minh City (formerly Saigon). The City is located at 10°45’N, 106°40’E in the southeastern region of Vietnam. The City is in the tropic and close to the sea; therefore it has a tropical climate, with an average humidity of 75%. There are only two distinct seasons: the rainy season, with an average rainfall of about 1,800 millimetres annually (about 150 rainy days per year), usually begins in May and ends in late November; the dry season lasts from December to April. The average temperature is 28°C (82°F), the highest temperature sometimes reaches 39°C (102°F) around noon in late April, while the lowest may fall below 16°C (61°F) in the early mornings of late December.”

Qui trình nghiên cứu (Procedures). Trong phần này, tác giả phải tóm lược từng bước nghiên cứu, kể cả những chỉ dẫn cho đối tượng nghiên cứu như thế nào. Việc phân nhóm trong nghiên cứu, chi tiết về can thiệp hay điều trị (nếu có). Nếu công trình có liên quan đến ngẫu nhiên hóa, tác giả cần phải mô tả cụ thể qui trình ngẫu nhiên hóa (randomization) như thế nào, kĩ thuật gì đã được sử dụng để đảm bảo các nhóm cân đối,

v.v…

Ví dụ: Patients with psoriatic arthritis were randomized to receive placebo or etanercept (Enbrel) at a dose of 25 mg twice weekly by subcutaneous administration for 12 weeks … Etanercept was supplied as a sterile, lyophilized powder in vials containing 25 mg etanercept, 40 mg mannitol, 10 mg sucrose, and 1-2 mg tromethamine per vial. Placebo was identically supplied and formulated except that it contained no etanercept. Each vial was reconstituted with 1 mL bacteriostatic water for injection.

Ngoài ra, tác giả phải mô tả cẩn thận kĩ thuật đo lường được sử dụng trong nghiên cứu, như tên của máy, model gì, software phiên bản nào, và nơi sản xuất. Cần phải mô tả điều kiện (nhiệt độ, ánh sáng) trong khi đo lường, cũng như các hệ số về độ tin cậy và độ chính xác của kĩ thuật đo lường.

Ví dụ: Blood pressure (diastolic phase 5) while patient was sitting and had rested for at least five minutes was measured by a trained nurse with a Copal UA-251 or a Takeda UA-751 electronic ausculatory blood pressure reading machine (Andrew Stephens, Brighouse, West Yorkshire) or with a Hawksley random zero sphygmomanometer (Hawksley, Lancing, Sussex) in patients with atrial fibrillation. The first reading was discarded and the mean of the next three consecutive readings with a coefficient of variation below 15% was used in the study, with additional readings if required.

Định nghĩa chỉ tiêu lâm sàng (measurements of endpoints). Một công trình nghiên cứu lâm sàng phải có một endpoint hay outcome, mà tôi tạm dịch là “chỉ tiêu lâm sàng”, là cái làm thước đo của một thuật can thiệp. Do đó, tác giả cẩn phải định nghĩa rõ ràng chỉ tiêu lâm sàng của công trình nghiên cứu là gì, và nhất là phương pháp đo lường (như vừa đề cập) ra sao. Thông thường, một nghiên cứu có 2 chỉ tiêu lâm sàng mà tiếng Anh gọi là “primary endpoint” (chỉ tiêu chính) và “secondary endpoint” (chỉ tiêu phụ).

Ví dụ: The primary endpoint with respect to efficacy in psoriasis was the proportion of patients achieving a 75% improvement in psoriasis activity from baseline to 12 weeks as measured by the PASI (psoriasis area and severity index). Additional analyses were done on the percentage change in PASI scores and improvements in target psoriasis lesions.

Nên nhớ rằng ở phần này tác giả chỉ mô tả những biến có liên quan đến bài báo, chứ không phải mô tả tất cả những biến đã được thu thập trong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như nếu bài báo chỉ nói về mật độ xương, thì tác giả không cần phải nói đến gãy xương (vì hai biến này rất khác nhau). Nguyên tắc là: chỉ mô tả những gì có liên quan đến phần kết quả.

Cỡ mẫu (Sample Size). Cỡ mẫu là một yếu tố rất quan trọng trong một nghiên cứu lâm sàng. Thông thường, các nghiên cứu randomized controlled trial (RCT) phải có một câu văn mô tả cách tính cỡ mẫu. Không phải là công thức tính (như tôi thấy nhiều bài báo ở Việt Nam), mà là những giả định đằng sau cách tính. Điều này quan trọng, vì qua giả định, người đọc có thể đánh giá khả năng mà công trình nghiên cứu có thể giải quyết câu hỏi đặt ra trong phần dẫn nhập.

Ví dụ: We consider that the incidence of symptomatic deep venous thrombosis or pulmonary embolism or death would be 4% in the placebo group and 1.5% in the ardeparin sodium group. Based on 0.9 power to detect a significant difference (p 0.05, two-sided), 976 patients were required for each study group. To compensate for nonevaluable patients, we planned to enroll 1000 patients in each group.

Ngẫu nhiên hóa (Randomization). Trong các công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial hay RCT), bệnh nhân thường được phân nhóm một cách ngẫu nhiên. Có nhiều cách phân nhóm bằng máy tính và thuật toán, cho nên tác giả có trách nhiệm phải mô tả rõ phương pháp phân nhóm để người đọc có thế đánh giá chất lượng của nghiên cứu. Nếu cách phân nhóm có hiệu quả thì kết quả thường cho thấy các nhóm rất tương đương về các đặc tính lâm sàng. Một ví dụ về cách mô tả phương pháp phân nhóm có thể thấy trong đoạn văn sau đây: “Women had an equal probability of assignment to the groups. The randomization code was developed using a computer random number generator to select random permuted blocks. The block lengths were 4, 8, and 10 varied randomly.”

Mật hóa (còn gọi là Blinding). Trong các công trình RCT, có khi cả bác sĩ điều trị và bệnh nhân đều không biết bệnh nhân mình (hay mình) nằm trong nhóm nào của nghiên cứu. Đây là một biện pháp nhằm tăng tính khách quan khi đánh giá hiệu quả của can thiệp. Cũng như ngẫu nhiên hóa có thể thực hiện bằng nhiều thuật toán, cách mật hóa cũng có thể thực hiện bằng nhiều “thủ thuật”. Cách mô tả thủ thuật đó có thể tìm thấy trong đoạn văn sau đây:: “All study personnel and participants were blinded to treatment assignment for the duration of the study. Only the study statisticians and the data monitoring committee saw unblinded data but none had any contact with study participants.”

Phân tích dữ liệu (DataAnalysis). Thiết kế và phân tích các nghiên cứu lâm sàng đều cần đến các phương pháp thống kê. Do đó, phần này tuy là phần cuối trong phần phương pháp của bài báo khoa học, nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng. Tôi từng phục vụ trong ban biên tập và thấy rất nhiều bài báo và công trình nghiên cứu rất tốt nhưng vì phân tích sai nên đành phải từ chối. Con số bài báo bị từ chối vì phân tích sai có khi lên đến 50% (như với tập san JAMA chẳng hạn). Do đó, trong phần phân tích, tác giả phải phát biểu cho được biến phụ thuộc (hay endpoints hoặc outcome) là gì, biến độc lập (hay risk factors hoặc covariates) là gì, và định nghĩa rõ ràng các biến này được xử lí ra sao. Nếu số liệu đã qua hoán chuyển thì tác giả phải giải thích tại sao. Vì có nhiều phương pháp phân tích số liệu và kiểm định giả thuyết, nên tác giả còn phải giải thích tại sao đã chọn phương pháp A mà không là phương pháp B. Đôi khi tác giả cũng phải nói ra đã dùng software nào cho phân tích. (Nhớ đừng “khoe” software phân tích mà cơ quan hay cá nhân đã “tậu” một cách bất hợp pháp!)

Ví dụ về cách viết đoạn văn này như sau: “All data analysis was carried out according to a pre-established analysis plan. Proportions were compared by using Chi-squared tests with continuity correction or Fisher’s exact test when appropriate. Multivariate analyses were conducted with logistic regression. The durations of episodes and signs of disease were compared by using proportional hazards regression. Mean serum retinol concentrations were compared by t-test and analysis of covariance … Two-sided significance tests were used throughout. The analysis was performed with the SAS system (SAS Institute, Inc, Cary, NC, USA.”

Nói chung, phần Phương pháp thường dài gấp 2 hay 3 lần phần Dẫn nhập. Sẽ không có vấn đề gì nếu tác giả mô tả phần Phương pháp một cách chi tiết, vì nếu tập san thấy không cần thiết thì họ sẽ cắt bỏ hay đưa vào phần phụ chú (appendix). Nhưng sẽ là vấn đề nếu tác giả cố tình mô tả phần Phương pháp một cách mù mờ và vắn tắt, bởi vì người duyệt bài sẽ nghĩ tác giả hoặc là muốn dấu diếm vấn đề hoặc là thiếu thành thật! Xin nhắc lại rằng gần 70% bài báo khoa học bị từ chối là do phương pháp không đúng hay mô tả không đầy đủ. Vì thế, tác giả cần phải hết sức thận trọng trong phần mô tả Phương pháp nghiên cứu, làm sao nói cho được là “what did you do” (bạn đã làm gì trong nghiên cứu này).

Trong các phần kế tiếp, tôi sẽ chỉ cách viết phần kết quả và mô tả các dữ liệu. Thể theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, tôi cũng sẽ cố gắng chỉ ra những chữ, câu văn, những đoạn văn quen thuộc trong cách viết một bài báo khoa học. Tôi nghĩ những chữ, câu văn và đoạn văn đặc thù này sẽ rất có ích cho các bạn đang muốn hay trong quá trình “phải có danh gì với núi sông” (tức là công bố cho được một vài bài báo khoa học để lưu danh cùng hậu thế :-)).

Nguyễn Văn Tuấn

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 2

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 1

Cách viết một bài báo khoa học – Phần 2

GS Nguyễn Văn Tuấn

Tuần qua tôi đã bàn về cách đặt tựa đề bài báo và các viết một abstract; tuần này, tôi sẽ chỉ cách viết phần dẫn nhập (introduction hay background). Phần dẫn nhập là phần tương đối quan trọng, vì nó nói lên kiến thức của tác giả đến đâu trong chuyên ngành. Người kinh nghiệm chỉ cần đọc qua phần dẫn nhập có thể đánh giá sơ qua về khả năng của tác giả đến đâu, có cập nhật hóa kiến thức như thế nào, và kĩ năng viết lách ra sao (chỉ nhìn qua cách dùng thuật ngữ là có thể đoán được).

Do đó, tác giả cần phải nhân cơ hội viết phần dẫn nhập để thuyết phục người đọc và chứng minh cho họ thấy rằng mình cũng “biết câu chuyện”. Tôi sẽ lấy vài ví dụ để minh họa cho phần này, và để giữ khách quan, tôi sẽ không nêu tên tác giả.

Dẫn nhập (introduction)

Trong phần này, tác giả cẩn phải trả lời câu hỏi “Tạisaolàm nghiên cứu này?” (Why did you do this study?) Phần dẫn nhập phải cung cấp những thông tin sau đây: (a) định nghĩa vấn đề; (b) những gì đã được làm để giải quyết vấn đề; (c) tóm lược những kết quả trước đã được công bố trong y văn; (d) và mục đích của nghiên cứu này là gì.

Đối với các tập san y khoa lớn và tổng quát (như New England Journal of Medicine, JAMA, Annals of Internal Medicine, v.v…) thì định nghĩa vấn đề rất quan trọng, bởi vì độc giả khác ngành có thể nắm được vấn đề và biết được tác giả đứng trên góc độ nào. Chẳng hạn như một nghiên cứu về gene và loãng xương, thì đoạn đầu tiên có thể nên (a) định nghĩa loãng xương là gì (vì nhiều người vẫn chưa rành), (b) tầm quan trọng của loãng xương ra sao (câu này để nhấn mạnh đây là vấn đề lớn, và vì lớn nên phải công bố trên các tập san lớn!) Chẳng hạn như, tác giả có thể viết “Osteoporosis is a disease characterized by low bone mass and deteriorated bone architecture which ultimately lead to increased susceptibility of fragility fracture.” Câu kế tiếp sẽ nói tầm quan trọng của gãy xương như thế nào, như tăng nguy cơ tử vong, tái gãy xương, giảm chất lượng cuộc sống,

v.v… Nhưng đối với các tập san chuyên ngành loãng xương và nội tiết, thì câu định nghĩa trên có khi … khôi hài. Khôi hài là vì đại đa số độc giả các tập san đó đều biết loãng xương là gì, và họ sẽ thấy khó chịu nếu tác giả “lên lớp” họ về một định nghĩa sơ đẳng! Thông thường, những tác giả viết câu định nghĩa trong các tập san chuyên ngành là nghiên cứu sinh, chứ chuyên gia cấp cao hơn không ai viết như thế.

Trong phần dẫn nhập, tác giả cần phải nêu cho được tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. Để nêu tầm quan trọng, tác giả có thể trình bày những thông tin như tần số của bệnh (prevalence) trong cộng đồng, hệ quả của bệnh đến nguy cơ tử vong, tăng nguy cơ mắc các bệnh khác (biến chứng), ảnh hưởng của bệnh đến nền kinh tế nước nhà, giảm chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn như câu “In postmenopausal women, one in three women will sustain a fragility fracture during their remaining lifetime” là một cách nêu lên qui mô của vấn đề gãy xương; nhưng để nêu hệ quả thì có thể viết một câu khác như “Fragility fracture is associated with increased risk of pre-mature mortality” (câu này nhấn mạnh “pre-mature mortality”, tức là chết sớm!) nên sẽ gây chú ý.

Trong phần điểm qua y văn, tác giả cần phải trình bày những thông tin cơ bản để cho người đọc nắm được vấn đề, ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, và hiểu mục tiêu của công trình nghiên cứu. Chỉ nên trình bày những thông tin có liên quan trực tiếp đến vấn đề, chứ không nên điểm qua những thông tin gián tiếp.

Phần lớn những ý tưởng trong phần dẫn nhập xuất phát từ y văn, tức những công trình đã công bố trước đây. Khi điểm qua y văn, nên giới hạn trong những nghiên cứu đã công bố trong vòng 5 năm trở lại đây, tránh những nghiên cứu đã trên 20 năm hay tránh những thông tin trong sách giáo khoa vì có thể những thông tin như thế không còn hợp thời nữa. Tuy trình bày thông tin quá khứ, nhưng phải là những câu chữ của chính tác giả, chứ không phải trích dẫn quá nhiều hay lặp lại câu chữ của người đi trước. Tất cả những thông tin trong phần dẫn nhập phải ăn khớp với tài liệu tham khảo. Tác giả nên có những tài liệu tham khảo đó, chứ không nên trích dẫn theo những những bài báo trong y văn (secondary citation).

Cách viết

Về mặt cấu trúc, phần dẫn nhập bao gồm một số đoạn văn không cần tiêu đề (heading). Tuy nhiên, để viết tốt phần dẫn nhập, kinh nghiệm của tôi cho thấy cần phải chú ý đến một số điểm căn bản sau đây:

(a) Khôngnênviết quá dài. Viết quá dài rất dễ làm cho người đọc sao lãng vấn đề chính, và có khi làm mất thì giờ người đọc phải đọc những thông tin không cần thiết.

(b) Khôngnênđiểmqua y văn theo kiểu viết sử. Phần lớn những người đọc bài báo là đồng nghiệp chúng ta, cho nên họ đã có một số kiến thức cơ bản. Do đó, tác giả không cần phải điểm qua y văn từ thời Hippocrate hay Khổng Tử, cũng không cần phải “lên lớp” [hay khoe với] người đọc về những khái niệm cơ bản mà người làm trong ngành phải biết. Một điều quan trọng là những thông tin trình bày trong phần dẫn nhập phải có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

(c) Phần dẫn nhập phải phát biểu mục đích nghiên cứu. Đoạn văn cuối của phần dẫn nhập là nơi để tác giả, sau khi điểm qua vấn đề và y văn, phát biểu mục đích của công trình nghiên cứu. Cố gắng duy trì nguyên tắc “từ tổng quan đến cụ thể”, tức là trong phần phát biểu vấn đề thì câu văn mang tính chung chung, nhưng phần mục đích thì phải cụ thể. Trong nhiều trường hợp, trước phần mục đích, tác giả nên phát biểu giả thuyết nghiên cứu. Chẳng hạn như “We hypothesize that blah blah blah”, rồi một câu kế tiếp “This study was designed to test the hypothesis by addressing the following specific aims: blah blah blah”.

(d) Vềvănphạm, phần dẫn nhập nên viết bằng thì quá khứ, nhất là khi mô tả những kết quả trong quá khứ. Tuy nhiên, khi đề cập đến những thông tin mang tính cổ điển mà được cộng đồng chuyên ngành chấp nhận, tác giả có thể dùng thì hiện tại.

Một số ví dụ

Trong bài báo sau đây (link bài báo được tác giả trích dẫn không tồn tại nên tôi không đăng được ở đây- NT) , tác giả viết phần dẫn nhập một cách ngắn gọn, chỉ 1 đoạn văn, nhưng cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để bạn đọc biết vấn đề.

Fragility fracture is a serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and is associated with increased risk of mortality [1]. Measurement of bone mineral density predicts subsequent risk of fractures among the elderly [2-4]. However, bone mineral density in later decades of life is a dynamic function of peak bone mass achieved during growth and its subsequent age-related rate of loss [5]. It has been estimated that over a lifetime, a typical woman loses about half of her trabecular bone and one third of her

cortical bone [6], although some women experience greater loss than others.

It is not clear whether the rate of bone loss is an independent risk factor for osteoporotic fractures. We hypothesized that patients with excessive bone loss are at increased risk of fracture. The present study was designed to test the hypothesis by assessing the contribution of bone loss to the risk of osteoporotic fractures in elderly women

Câu đầu (Fragility fracture is a serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and is associated with increased risk of mortality) tác giả định nghĩa vấn đề và cố gắng thuyết phục rằng gãy xương là vấn đề nghiêm trọng vì làm tăng nguy cơ tử vong.

Trong câu thứ hai (Measurement of bone mineral density predicts subsequent risk of fractures among the elderly) tác giả cho biết mật độ xương là một yếu tố tiên lượng gãy xương.

Hai câu kế tiếp (However, bone mineral density in later decades of life is a dynamic function of peak bone mass achieved during growth and its subsequent age-related rate of loss. It has been estimated that over a lifetime, a typical woman loses about half of her trabecular bone and one third of her cortical bone [4], although some women experience greater loss than others) tác giả cho biết mật độ xương thay đổi thay độ tuổi, và tùy thuộc vào hai thông số: mật độ xương tối đa trong thời “xuân thì”, và tỉ lệ mất xương sau thời kì mãn kinh.

Câu kế tiếp tác giả cung cấp thông tin cụ thể hơn, cho biết một phụ nữ trung bình mất khoảng 50% xương xốp và 1/3 xương đặc, và tỉ lệ mất xương dao động lớn giữa các phụ nữ. Câu văn thứ tư (It is not clear whether the rate of bone loss is an independent risk factor for osteoporotic fractures) cho chúng ta biết khoảng trống trong y văn: đó là chưa ai biết tỉ lệ mất xương có liên quan gì đến gãy xương hay không.

Sau khi đặt vấn đề, tác giả phát biểu giả thuyết nghiên cứu (We hypothesized that patients with excessive bone loss are at increased risk of fracture), và mục đích nghiên cứu (The present study was designed to assess the contribution of bone loss to the risk of osteoporotic fractures in elderly women.)

Đây là một dẫn nhập có thể nói là rất logic, vì ý tưởng nối kết nhau. Câu văn đầu cho đến câu văn cuối là một vòng tròn khép kín. Có lẽ cái hay của tác giả là chỉ tóm gọn phần dẫn nhập trong một đoạn văn duy nhất với 114 từ! Viết dẫn nhập ngắn gọn và súc tích như thế đòi hỏi kinh nghiệm chuyên môn tốt và cách dùng chữ một cách chiến lược.

Nhưng nếu chúng ta xem xét phần dẫn nhập sau đây:

It is well recognised that nonsocomial infection is associated with an increase in morbidity and mortality

together with a significant economic cost [1]. Patients in Intensive Care units develops nonsocomial infections more frequently than other hospitalised patients [2].

This is a result of severity of illness, multiple exposure to invasive procedures and multiple therapies [3]. Patients in surgical and orthopaedic wards are also at a high risk of developing nonsocomial infections.

These patients are exposed to various invasive procedures (including surgical wounds) which may be similar to those in ICU. Because of the expected differences in the nature of risk factors, patients’ illnesses in the therapeutic and infection control measures in the above wards, it was necessary to conduct a study to assess the nonsocomial infection rates.

Cách viết này không tệ, nhưng khó có thể xem là tốt. Câu văn đầu tiên (It is well recognised that nonsocomial infection is associated with an increase in morbidity and mortality together with a significant economic cost [1]) tác giả cho biết vấn đề quan trọng vì liên quan đến tử vong và tốn kém. Những câu văn sau, tác giả cố gắng giải thích vấn đề nhiễm trùng ở bệnh nhân cấp cứu và bệnh nhân qua phẫu thuật chấn thương chỉnh hình, mà họ nghĩ rằng có cùng nguy cơ. Tuy nhiên, tác giả không cho biết vấn đề là gì, đã có ai nghiên cứu gì, và khoảng trống của tri thức là gì. Ấy thế mà đến câu văn kế tiếp, tác giả giải thích lí do cho nghiên cứu! (Because of the expected differences in the nature of risk factors, patients’ illnesses in the therapeutic and infection control measures in the above wards, it was necessary to conduct a study to assess the nonsocomial infection rates). Thật ra, mục đích nghiên cứu cũng chưa rõ ràng, vì tác giả không phát biểu giả thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu là gì. Sau khi đọc xong phần dẫn nhập, có lẽ người đọc không biết ý nghĩa và tầm quan trọng của nghiên cứu này ra sao. Thật vậy, tác giả chưa thuyết phục độc giả tại sao họ đã thực hiện công trình nghiên cứu! Nên tránh cách viết như thế này.

Đoạn văn dưới đây cũng là phần dẫn nhập của một bài báo trên một tập san toán ở Việt Nam. Bài báo này thật ra không phải là một công trình nghiên cứu toán, mà là một bài viết về lịch sử phát triển bộ môn toán có tên là “complex analysis” (chưa biết dịch sang tiếng Việt là gì) ở Việt Nam.

In the development of contemporary mathematics in Vietnam complex analysis occupies a special place. In this note we give a brief survey of the development of complex analysis in Vietnam. We describe how complex analysis in Vietnam developed under very special conditions: the anti-French resistance, the struggle for the reunification of the country, the American war, the economic crisis, and the change toward a market economy.

Đứng trên quan điểm viết báo khoa học, phần dẫn nhập này chưa đạt. Tạm bỏ qua những sai sót về tiếng Anh và văn phạm tiếng Anh (khá hiển nhiên), có thể thấy rằng các câu văn không mang tính nối tiếp và khúc chiếc. Trong câu văn đầu, tác giả không nêu vấn đề là gì, mà đi thẳng vào vị trí đặc biệt của complex analysis ở Việt Nam. Nhưng câu thứ hai thì không thấy tac giả nói “đặc biệt” như thế nào; thay vào đó, tác

giả giới thiệu nội dung bài viết! Đến câu thứ 3 thì chúng ta mới biết “đặc biệt” là gì (là phát triển trong bối cảnh chiến tranh). Nói cách khác, phần dẫn nhập này chưa đạt, vì chưa nói lên được vấn đề, chưa trả lời câu hỏi tại sao phải có bài báo này. Cách trình bày ý tưởng cũng chưa mạch lạc. Nên tránh cách viết này.

Có người nghĩ rằng chỉ cần viết ngắn gọn, nhưng đối với “văn chương khoa học” thì tôi nghĩ quan điểm đó không đúng. Viết phần dẫn nhập quá ngắn làm cho người đọc cảm nhận rằng tác giả thiếu suy nghĩ sâu, thiếu ý tưởng, hay thiếu thông tin (nên chẳng biết viết/nói gì thêm). Viết dài quá thì độc giả lại nghĩ tác giả có lẽ

do thiếu ý tưởng nên cố tình kéo dài câu chuyện! Do đó, cách viết dẫn nhập tốt nhất là vừa đủ, không qúa dài và cũng không quá ngắn. Theo kinh nghiệm của tôi, phần dẫn nhập của một bài báo y khoa chỉ nên giới hạn trong vòng 1 trang A4. Điều quan trọng nhất là sau khi đọc xong phần dẫn nhập, người đọc biết được tầm quan trọng của nghiên cứu, và tại sao tác giả làm nghiên cứu. Được như thế thì có thể xem như tác giả đã “đạt” được một mục tiêu của mình: đó là làm cho người đọc phải đọc phần kế tiếp (phần Phương pháp).

Bắt mạch Hiến pháp

Theo Blog Hoàng Xuân Phú

 Bài 1:Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt? 

Bài 2:Hiến pháp vi hiến 

Cuối tháng 3 năm 2013 dân cư mạng bỗng xôn xao về việc Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), báo Nhân dân (Cơ quan Trung ương của ĐCSVN), trang VOV Online (Đài Tiếng nói Việt Nam) cùng nhiều báo chí và trang mạng “lề phải”, như Tiền phong, Tuổi trẻ, Văn nghệ Quân đội, Vietnamnet… đồng loạt viết Hiếp pháp” thay cho “Hiến pháp”. Trước đó, ngày 22 tháng 11 năm 2011, Văn phòng Chính phủ cũng gửi công văn số 8298/VPCP-PL “V/v thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng về cuộc họp trực tuyến tổng kết Hiếp pháp”. Trong hoàn cảnh Nhân dân bị áp đặt một bản Hiến pháp trái với nguyện vọng và có hại cho phía dân, lại tạo điều kiện dễ dãi cho bộ máy thống trị, thì cách chơi chữ này quả là ý nhị và thâm thúy.

 

Trên bàn phím thông thường, hai phím “N”“P” nằm cách xa nhau, vì vậy khó mà vô tình gõ nhầm. Chẳng hiểu nguyên do thực sự là gì, nhưng việc họ thay chữ cái “N” bằng “P” gợi ra cách làm ngược lại, là thay “P” bằng “N” nhằm tạo ra từ Hiến… nháp, để gọi tắt bản Hiến pháp đã đượcQuốc hội khóa XIII long trọng thông qua vào ngày 28/11/2013, khi chất lượng của nó mới đạt tầm bản nháp.

Hai bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”“Hiếnpháp vi hiến” đã góp phần làm sáng tỏ nhận định “… mới đạt tầm bản nháp”. Bài này bổ sung thêm một số chứng cứ. Hy vọng chúng sẽ có ích, giúp các đại biểu Quốc hội hiểu rõ hơn cái sản phẩm mà họ đã nhất trí chọn làm Hiến pháp, và cũng giúp các cử tri hiểu rõ hơn năng lực của những người mà họ đã bầu làm đại biểu cho mình.

Một ngày không xa, chắc chắn Hiến pháp sẽ được sửa chữa lần nữa, hoặc được viết lại từ đầu. Hy vọng những người sẽ tham gia vào công việc trọng đại ấy đọc kỹ mấy bài viết này, để rút kinh nghiệm mà khắc phục một số chứng bệnh kinh niên, thường mắc phải trong các Hiến pháp của chế độ đương thời.

Để dễ theo dõi, bài này được cấu trúc theo kiểu phân loại “chứng bệnh” mắc phải. Đó là các chứng “tất định” (phần 1), “lắm lời” (phần 2), “ít chữ” (phần 3), “tuyên giáo” (phần 4), “lan man” (phần 5), “đại ngôn” (phần 6), “bất chấp” (phần 7), và “vu vơ” (phần 8).

Bài này khá dài. Chẳng phải vì người viết quá tham lam, ôm đồm, không biết chọn lọc, mà do tâm lý “dọn vườn”: Đã phải xắn tay lên dọn cỏ, thì chẳng nỡ dừng tay khi mảnh vườn vẫn còn um tùm cỏ dại. Dù đã cố gắng chọn cách trình bày, nhưng bài viết không tránh khỏi rời rạc, khô khan, vì phải đề cập đến nhiều nội dung tẻ nhạt. Mong bạn đọc dành thời gian và kiên trì đọc đến cuối, đặc biệt là những người quan tâm, muốn hiểu rõ hơn thực trạng của bản Hiến pháp đang chi phối cuộc sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam.

  1. Chứng “Tất định”

Trên đỉnh cao quyền lực, các nhà độc tài dễ mắc chứng tứ tưởng: Tưởng quyền lực của mình vô biên, bao trùm thiên hạ, và tưởng dân chúng thuộc quyền sở hữu của họ, nên luôn phải ngoan ngoãn, tuân thủ vô điều kiện mọi mệnh lệnh mà họ ban ra. Tưởng trí tuệ của mình cao ngất trời, và tưởng hiểu biết của dân chúng chỉ thấp lè tè ngọn cỏ. Do đó, làm người thế nào, sử dụng quyền con người ra sao, thì muôn dân đều phải đợi nhà cầm quyền cho phép và hướng dẫn thực hiện. Cũng vì vậy nên nhiễm phải chứng tất định“, nghiện đem tất cả mọi thứ ra để quy định hay định nghĩa, rồi coi đó là chuẩn mực, khuôn phép, và áp đặt lên toàn dân. Buồn thay, chuẩn mực mà thường phi lý, cứ sai hoài sai mãi…

1.1.

Một biểu hiện của chứng hoang tưởng quyền lực, coi thường người dân, là không chịu thừa nhận quyền con người thuộc phạm trù đương nhiên, như sự tồn tại của con người, mà coi quyền con người là thứ do thế lực cầm quyền ban cho dân chúng. Ban cho bao nhiêu thì dân chúng chỉ được hưởng bấy nhiêu, không được đòi hỏi hay thắc mắc. Có điều, giữa thời buổi nhãn hiệu “nhà nước pháp quyền” đã trở thành mốt, thì sự ban phát tùy ý được hợp pháp hóa thông qua thủ thuật hiến định.

Trong các Hiến pháp của chế độ này, từ “quyền con người” xuất hiện lần đầu tiên và chỉ đúng một lần tại Hiến pháp 1992, nhưng không phải để thừa nhận, mà để phủ định:

“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.” (Điều 50)

Nghĩa là “các quyền con người” không được thừa nhận như giá trị phổ cập, mà chỉ được “thể hiện ở các quyền công dân”, và chúng cũng chỉ “được quy định trong Hiến pháp và luật”.

Sang Hiến pháp 2013, từ “quyền con người” xuất hiện 9 lần, không còn bị đồng nghĩa mà được song hành với “quyền công dân”, nhưng cả hai đều không thoát nổi số phận chỉ được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật”:

“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” (Khoản 1 Điều 14)

Vậy là cả những quyền con người hiển nhiên cũng không được thừa nhận, nếu không vượt qua “cửa ải hiến định”. Điều đó cho thấy chứng “tất định” giống như một thứ bệnh ung thư đã di căn, tác động xấu tới cuộc sống của mọi người dân.

1.2.

Một căn nguyên khác của chứng “tất định” là bệnh ấu trĩ nghề nghiệp trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Ấy là tưởng rằng quy định càng kỹ, càng cụ thể thì càng chặt chẽ, càng ít bị lợi dụng. Nhưng cuộc sống quá bao la, đến mức không một tấm lưới pháp lý nào có thể bao trùm hết mọi hoàn cảnh thực tế, nên càng cố căng ra để phủ thì càng sơ hở, rồi kéo căng quá thì rách cả lưới. Khi sa đà vào cụ thể, thì cũng đánh mất tính tổng quát, nên có thể trở nên sai hoặc để sót nhiều trường hợp, và đôi khi còn dễ bị lợi dụng hơn. Chẳng hạn, Điều 153 Bộ luật hình sự số 15/1999/AH10 quy định về “Tội buôn lậu”, nhưng chỉ đề cập đến hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới. Khi đã viết cụ thể “qua biên giới”, thì không thể coi “buôn bán trái phép” trong nội địa Việt Nam là phạm “tội buôn lậu” (theo Điều 153) nữa. Vậy thì cứ việc “buôn bán trái phép”, nhưng tránh vượt “qua biên giới” là thoát được tội này, mặc dù buôn bán hàng cấm hoặc hàng trốn thuế (kể cả trong nội địa) thường được coi là “buôn lậu”.

1.3.

Khi đã nghiện quy định, nghiện định nghĩa, cố định nghĩa cả những thứ không cần định nghĩa, hay không thể định nghĩa chính xác, thì khó tránh khỏi những kết quả ngây ngô. Ví dụ đơn giản là Khoản 1 Điều 13 Hiến pháp 2013, quy định rằng:

“Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.”

Có thể rút ra điều gì từ đây? Khi đã viết cụ thể là “hình chữ nhật”, “chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”, và “ở giữa có ngôi sao”, thì có nghĩa các nhà lập hiến rất chú trọng chi tiết và tính chính xác, đặc biệt là coi trọng hình dáng, tỷ lệ kích thướcvị trí của ngôi sao. Do đó, khi đã quy định tỉ mỉ như thế, thì tỷ lệ nào không được nhắc tới có thể coi là không quan trọng và có thể chọn tùy ý. Chẳng hạn, nếu “hình chữ nhật” (với “chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”) to bằng mặt bàn và “ở giữa có ngôi sao”… nhỏ xíu như con ruồi, thì vẫn phù hợp với mọi tiêu chuẩn được quy định chi tiết trong Hiến pháp. Nhưng có thể coi cái thứ hợp hiến ấy là Quốc kỳ của nước CHXHCN Việt Nam hay không? Cũng theo tiêu chuẩn hình dáng, tỷ lệ kích thướcvị trí của ngôi sao đã được hiến định, thử hỏi có thể chấp nhận các biến tướng của Quốc kỳ như trong Ảnh 1, Ảnh 2Ảnh 3 hay không? Có cần phải xử lý các tổ chức và cá nhân đã vi phạm Hiến pháp thông qua hành vi xuyên tạc Quốc kỳ hay không?

Ảnh 1: Quốc kỳ hình chữ nhật, nhưng tỷ lệ kích thước sai, với ngôi sao bị búa liềm chèn dạt sang một phía (Nguồn: Internet.

Ảnh 2: Quốc kỳ hình… thang lõm một cạnh, với ngôi sao theo búa liềm phiêu bạt lên trên (Nguồn: Internet

Ảnh 3: Quốc kỳ hình… méo – Không phải do gió bay, vì ngôi sao vẫn ngay ngắn, không bị méo theo nền cờ (Nguồn: Internet)

1.4.

Khoản 2 Điều 13 Hiến pháp 2013 viết như sau:

Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’.”

Tức Quốc huy phải là “hình tròn”, nghĩa là hình phẳng, được giới hạn bởi một đường biên có khoảng cách không đổi (được gọi là bán kính) so với một điểm cố định (được gọi là tâm). Xin hỏi: Trong hai hình ở Ảnh 4Ảnh 5, cái nào giống “hình tròn” hơn? Trong số những người đã học xong chương trình giáo dục tiểu học (được hiến định “là bắt buộc” tại Điều 61 Hiến pháp 2013), ai dám nói rằng cái hình chỗ lồi chỗ lõm trong Ảnh 5“hình tròn”? Ấy vậy mà Hiến pháp lại gọi nó là “hình tròn”, và 486 đại biểu Quốc hội đã bấm nút “tán thành”, chỉ có 2 người bỏ phiếu trắng, không có ai phản đối.

 

 

Vốn dĩ, Hiến pháp 1946 không hề hiến định Quốc kỳ và Quốc huy. Hiến pháp 1959 bắt đầu hiến định chúng, đã quy định “Quốc huy… hình tròn”, nhưng không đề cập đến hình dáng và tỷ lệ kích thước của Quốc kỳ, mà chỉ viết “ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”. Hiến pháp 1980 bổ sung thêm quy định “Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”. Sau đó, nội dung hiến định “Quốc kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài… ở giữa có ngôi sao” “Quốc huy… hình tròn” được tiếp tục duy trì trong Hiến pháp 1992Hiến pháp 2013. Như vậy, suốt hơn nửa thế kỷ, cả 13 khóa Quốc hội đều “kiên định lập trường” cho rằng Quốc huy như trong Ảnh 5 là “hình tròn”.

Nội dung đơn giản như vậy mà còn hiến định sai, thì sao có thể hiến định đúng những vấn đề phức tạp? Lỗi sơ đẳng, hiển nhiên như vậy mà còn không nhận ra, thì sao có thể phát hiện nổi những sai sót không tầm thường trong Hiến pháp?

Hiến pháp Mỹ không đề cập đến Quốc kỳQuốc huy. Hiến pháp Đức cũng không nhắc đến Quốc huy, và chỉ viết gỏn gọn về Quốc kỳ như sau: “Cờ Liên bang là Đen-Đỏ-Vàng.” (Nghĩa là chỉ nhắc đến bộ màu Đen-Đỏ-Vàng, thường được dùng làm tên để gọi Quốc kỳ CHLB Đức, chứ không đưa ra quy định mang tính định nghĩa về Quốc kỳ.) Thế nhưng sự “thiếu vắng” ấy không hề cản trở hai quốc gia đó phát triển, trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến Việt Nam phải làm khác đi, cố hiến định một cách chi tiết về Quốc kỳ và Quốc huy, để rồi lại tạo ra sản phẩm ngây ngô như vậy?

1.5.

Điều 17 Hiến pháp 2013 định nghĩa:

“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.”

Ấy là tiếp tục duy trì truyền thống hiến định tại Điều 53 Hiến pháp 1980Điều 49 Hiến pháp 1992. Với bản năng “tất định”, đương nhiên đặt ra câu hỏi: Vậy “người có quốc tịch Việt Nam” là ai? Khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam (Số 24/2008/QH12) cho câu trả lời… ngược lại:

“Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.”

Sử dụng quy tắc bắc cầu cho cặp mệnh đề trên, ta thu được “chân lý”:

“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân Việt Nam.”

Chỉ “luận quẩn” những thứ hiển nhiên, để rồi tòi ra đặc sản “đèn cù” như vậy, thì có nhất thiết phải viết vào Hiến pháp và luật hay không?

  1. Chứng “Lắm lời”

Lời nói đầu của Hiến pháp Mỹ chỉ vẻn vẹn 52 chữ và của Hiến pháp Đức chỉ có 79 chữ. Còn ở Việt Nam, Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 dài 1276 chữ, của Hiến pháp 1980 dài 1706 chữ và của Hiến pháp 1992 dài 532 chữ. Nghĩa là dài, rất dài, nhưng càng dài thì càng… sai, nên chưa đầy 70 năm đã phải trải qua 5 đời Hiến pháp. Có lẽ nhận thức được phần nào hạn chế ấy, nên Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 đã được viết gọn hơn, chỉ còn 290 chữ. Tiến bộ ấy dễ nhận thấy, song không có nghĩa là Hiến pháp đã khắc phục xong chứng “lắm lời”. Sau đây là mấy ví dụ về biểu hiện của hội chứng đó trong Hiến pháp 2013.

2.1.

“Công đoàn Việt Nam… là… tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên” – Nội dung này được hiến định đến hai lần. Lần thứ nhất tại Điều 9:

Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình…”

Lần thứ hai sát ngay sau đó, tại Điều 10, với từ “người lao động” thay cho từ “thành viên”:

Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”

2.2.

“Cơ quan… cán bộ, công chức, viên chức phải… chống tham nhũng, lãng phí” – Cái này được quy định tại Điều 8:

“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”

Không nhất thiết phải viết ở đó như vậy, vì nội dung “Cơ quan… cá nhân phải… chống lãng phí… chống tham nhũng” cũng xuất hiện trong Điều 56:

Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước.”

Chẳng nhẽ phải đề cập hai lần, vì Quốc hội cho rằng “các cơ quan nhà nước” không phải là “cơ quan”, và “cán bộ, công chức, viên chức” không phải là “cá nhân”, hay sao?

2.3.

Đặc biệt, chỉ trong nội bộ Điều 58 mà ý “Nhà nước, xã hội… bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…” đã được viết hai lần:

“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

  1. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.”

Chẳng nhẽ phải viết hai lần vì Quốc hội cho rằng “người mẹ, trẻ em” không thuộc vào “Nhân dân”?

2.4.

Và đây nữa, cùng trong Điều 15, Khoản 2 đã quy định:

“Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.”

Vậy mà Khoản 4 còn viết:

“Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”

Chẳng nhẽ, Quốc hội cho rằng, mặc dù đã “tôn trọng quyền của người khác” theo Khoản 2, nhưng vẫn có thể “xâm phạm quyền của người khác”, nên phải dùng Khoản 4 để quy định “không được xâm phạm quyền của người khác”, hay sao? (Xem Phụ lục I.)

Nếu cho rằng Khoản 4 Điều 15 là cần thiết, thì tại sao không bổ sung thêm vào Điều 4 Hiến pháp 2013 Khoản 4 với nội dung tương tự? Cụ thể như sau:

Việc thực hiện quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội không được xâm phạm lợi ích Quốc gia, Dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.”

Thậm chí, nên viết thêm rằng:

“Nghiêm cấm việc đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích Dân tộc, vì quyền lợi của đảng mà hy sinh quyền lợi Quốc gia.

Thực tế chỉ ra rằng: Hiến định như vậy không thừa, mà còn hết sức cần thiết.

  1. Chứng “Ít chữ”

Phải chăng đã quen “lắm lời” thì hiến định cái gì cũng kỹ lưỡng? Không, trái lại, khi đã tốn “lắm lời” cho những chuyện không đâu, thì chỉ còn lại “ít chữ” cho những điều cần thiết.

Hiến pháp 2013 quy định (tại Điều 25):

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Vẻn vẹn 33 chữ cho 3 nhóm quyền tự do quan trọng: Tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội.

Vốn dĩ, vào thuở sơ khai của trình độ lập hiến, Hiến pháp 1946 (Điều 10) chỉ dành 21 chữ cho 3 nhóm quyền này, dưới hình thức “khoán trắng”, nghĩa là không kèm theo bất kỳ cam kết hay ràng buộc nào cả. Sau đó, Hiến pháp 1959 (Điều 25) tăng lên thành 44 chữ, chủ yếu vì bổ sung thêm cam kết:

“Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”

Sang đời thứ ba, Hiến pháp 1980 (Điều 67) sử dụng số chữ kỷ lục là 79, do bổ sung tiếp hai ràng buộc

“… phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân”

“Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.”

Đến đời thứ tư, Hiến pháp 1992 (Điều 69) rút xuống còn 31 chữ, trong đó bỏ hẳn cam kết “Nhà nước bảo đảm bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”, và thay điều kiện “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân” bằng ràng buộc “theo quy định của pháp luật”.

Việc hủy bỏ cam kết “Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó”, vốn tồn tại trong Điều 67 Hiến pháp 1980Điều 25 Hiến pháp 1959, không chỉ đơn thuần là khước từ trách nhiệm của nhà cầm quyền, mà còn thể hiện quyết tâm không cho “công dân sử dụng các quyền đó”. Chính vì mưu đồ vi hiến ấy, mà họ đã dựng lên trong Điều 69 Hiến pháp 1992 rào cản “… theo quy định của pháp luật”, rồi cố tình trì hoãn, dứt khoát không chịu ban hành văn bản pháp luật quy định việc thực hiện, để công dân không thể thực thi các quyền tự do. Sau khi nhận ra rào cản ấy không đủ kín về mặt pháp lý, họ đã thay thế nó trong Điều 25 Hiến pháp 2013 bằng bức tường thành kiên cố hơn: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tiếc thay, đi lạc nước cờ lập hiến nên lâm vào ngõ cụt, như phân tích trong bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”.

Dân gian dùng từ “xin đểu” để chỉ kiểu “giả vờ xin, nhưng thực chất là ngang ngược ép buộc người khác phải cho”. Phải chăng, tương tự như vậy, từ “cho đểu” cũng phù hợp với kiểu “giả vờ cho, nhưng thực chất là ngang ngược cản cấm người khác nhận”?

Cũng chính vì ý đồ không cho “công dân sử dụng các quyền đó”, nên mấy quyền tự do được hiến định một cách đơn giản, mang tính chiếu lệ, và chỉ sử dụng ít chữ. Để hiểu hơn bản chất này, ta hãy so sánh với hiến pháp của vài nước khác.

Hiến pháp Mỹ (Tu chính I, bổ sung vào năm 1791) quy định:

“Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, hoặc quyền tự do báo chí, hoặc quyền của người dân tụ họp (assemble) một cách hòa bình (peaceably) và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.”

Như vậy, Hiến pháp Mỹ cũng chỉ dùng ít chữ để hiến định các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chítự do tụ họp. Không phải vì các nhà lập hiến Mỹ thiếu chữ, mà vì cho rằng không cần thiết phải viết quá nhiều về những quyền được họ quan niệm là hiển nhiên, hiển nhiên đến mức chỉ còn cần hiến định việc cấm Quốc hội ban hành các đạo luật nhằm hạn chế các quyền đó. Mặc dù “hào phóng” như vậy, nhưng quyền tụ họp không được “khoán trắng” như trong Hiến pháp 1946 hay Hiến pháp 2013 của Việt Nam, mà bị Hiến pháp Mỹ hạn chế trong khuôn khổ “tụ họp một cách hòa bình.

Đòi hỏi “tụ họp một cách hòa bình” cũng xuất hiện cùng với điều kiện “không mang theo vũ khí” trong Điều 8 Hiến pháp Đức, hiến định về quyền tự do tụ họp (bao gồm cả quyền biểu tình):

“(1) Mọi người Đức đều có quyền tụ họp một cách hòa bìnhkhông mang theo vũ khí, mà không cần phải trình báo hay được chuẩn y.

(2) Đối với các cuộc tụ họp ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật.”

Bên cạnh đó, Hiến pháp Đức còn dành Điều 5 để quy định về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tinĐiều 9 để quy định về quyền tự do lập hội (xem Phụ lục II). Như vậy, để thể hiện nội dung của Điều 25 Hiến pháp 2013 (với 33 chữ) về 3 loại quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội, Hiến pháp Đức phải sử dụng Điều 5, Điều 8Điều 9, với tổng cộng 215 chữ tiếng Đức và có thể dịch ra 294 chữ tiếng Việt, nghĩa là nhiều gấp gần 9 lần so với Hiến pháp hiện hành của Việt Nam. Đấy là chưa kể Điều 18 (quy định về việc tước bỏ quyền cơ bản nếu lợi dụng chúng để chống lại trật tự dân chủ tự do) và Điều 19 (quy định về nguyên tắc ban hành luật hạn chế quyền cơ bản nếu hiến pháp cho phép hạn chế).

Một ví dụ khác là điều hiến định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Trong khi Hiến pháp Việt Nam 2013 (Điều 22) sử dụng 46 chữ cho mục đích này, thì Hiến pháp Đức (Điều 13) sử dụng 334 chữ tiếng Đức, tương đương khoảng 450 chữ tiếng Việt, tức là nhiều gấp hơn 9 lần so với Hiến pháp 2013.

Hai ví dụ trên cho thấy Hiến pháp 2013 dành rất ít chữ để hiến định quyền con người, quyền công dân. Tại sao?

Phải chăng là để nhà cầm quyền dễ hạn chế hay dễ phủ định các quyền đó?

Hay do không có ý định chấp nhận chúng trên thực tế, nên cũng chẳng cần phải phí chữ cho chúng, đến mức bỏ qua cả cái ràng buộc đã trở thành kinh điển, là quyền tự do hội họp, biểu tình gắn liền với điều kiện là chúng phải diễn ra “một cách hòa bình”?

  1. Chứng “Tuyên giáo”

Chứng “lắm lời” không chỉ thể hiện ở chỗ lặp đi lặp lại một số nội dung, mà cả ở việc nhồi vào Hiến pháp những mệnh đề thuần túy “tuyên giáo”. Cứ như thể Hiến pháp là nơi để các tác giả thể hiện tài viết văn chính trị hay khả năng thuyết giáo.

4.1.

Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:

“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam…”

Vậy “đội tiên phong” là gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Thuật ngữ này chứa thuộc tính pháp lý nào, mà lại lạc vào Hiến pháp? Ngay cả ý nghĩa đời thường của nó cũng đã bị mất tiêu sau khi chiến tranh kết thúc, cái thuở “tiên phong” còn có nghĩa là đi đầu ra mặt trận, gương mẫu xông pha nơi lửa đạn… Còn bây giờ, khi lý tưởng quan trường là leo thật cao và kiếm thật nhiều tiền, với vũ khí là lợi dụng quyền lực, bất chấp pháp luật, thì “tiên phong” trên “mặt trận thi đua… tham nhũng”, hay sao?

4.2.

Khoản 1 Điều 15 Hiến pháp 2013 viết:

“Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.”

Mệnh đề này hay được tua lại trong các bài tuyên giáo. Nó có thể dùng để dạy con nít, giáo dục chúng đừng chỉ nghĩ đến quyền lợi mà quên nghĩa vụ. Nhưng khi “bị lạc” vào Hiến pháp, thì mệnh đề đó trở nên vô nghĩa. Nó hoàn toàn thừa, vì “trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ” của công dân đã được hiến định rõ ràng và đầy đủ tại Khoản 3 của chính Điều 15:

“Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.”

Hơn nữa, trong khuôn khổ một văn bản pháp lý, thì thuật ngữ “không tách rời” chỉ có thể hiểu một cách “trần trụi” theo nghĩa đen, khiến câu văn bóng bẩy ấy trở nên sai về nội dung. Đang ăn, đang ngủ, hay đang làm tình, chẳng nhẽ cũng phải thực hiện đồng thời một “nghĩa vụ công dân” nào đó, để thỏa mãn điều kiện “không tách rời”, hay sao? Đối với trẻ sơ sinh, người tàn tật nặng và cụ già nằm liệt giường, cần được chăm sóc tuyệt đối, thì “quyền” được chăm sóc của họ “không tách rời nghĩa vụ công dân” nào đây?

4.3.

Điều 45 Hiến pháp 2013 viết:

“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.”

Hiện thân đích thực của “Tổ quốc” ra sao, khi các bên xung đột đều nhân danh “Tổ quốc”, giống như thời đất nước còn chia đôi thành hai miền Nam, Bắc? Bao giờ thì phải hay được “bảo vệ Tổ quốc”, và “bảo vệ” như thế nào? Khi Tổ quốc bị xâm lấn và đồng bào ngư dân bị ngoại bang bắt bớ, cướp bóc ngay trên vùng biển quê hương, thì công dân có nghĩa vụcó quyền “bảo vệ” hay không? Tại sao nhà cầm quyền lại sử dụng “quyền cao quý” để đàn áp những người biểu tình phản đối hành vi bành trướng của ngoại bang, nhằm thực thi “nghĩa vụ thiêng liêng”? Ôi Tổ quốc, chúng con phải bảo vệ Người thế nào đây, khi Tổ quốc của họ khác Tổ quốc của chúng con?

Tại sao không viết gọn, rằng “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ và quyền của công dân”, mà cố nhồi thêm vào đó hai tính từ “thiêng liêng”“cao quý” ? “Thiêng liêng”“cao quý” hay không là cảm nhận của mỗi người. Tình cảm đó bị chi phối bởi hình hài mà Tổ quốc hiện ra trong con mắt của từng số phận. Đối với thế lực núc ních nhờ tham nhũng, thì có lẽ Tổ quốc giống như bò cái thả rông, không mất công nuôi vẫn ngày ngày cho sữa – Yêu yêu quá đi thôi! Còn đối với dân oan lang thang trong vô vọng, thì có lẽ Tổ quốc giống như người mẹ mải theo người tình mà bỏ rơi con cái – Sao mẹ nỡ vô tình làm vậy? Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tình cảm đương nhiên cũng khác nhau. Không thể đòi hỏi người bị đè đầu cưỡi cổ cũng phải hưng phấn như kẻ đang đè, đang cưỡi. Đừng đòi những phận đời đang chới với trong biển khổ phải dày vò thêm với câu hỏi “thiêng liêng”: “Ta đã làm gì cho Tổ quốc?” Hãy để lương tâm “cao quý” của các đức ông, đức bà thường nhân danh Tổ quốc trả lời câu hỏi: “Tổ quốc đã làm gì cho dân đen?” Và phía lập hiến hãy trả lời câu hỏi: Quốc hội lấy đâu ra cái quyền và cái lý để hiến định cả tình cảm của công dân, buộc mọi người phải coi đòi hỏi “bảo vệ Tổ quốc” theo kiểu nhà cầm quyền ấn định là “thiêng liêng” và “cao quý”?

4.4.

Điều 68 Hiến pháp 2013 viết:

“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân.”

“Phát huy tinh thần yêu nước” như thế nào? Tổ chức khiêu vũ nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân bành trướng Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới phía bắc, nhằm ngăn cản buổi lễ tưởng niệm hàng vạn đồng bào và chiến sĩ đã ngã xuống, có phải là cách “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước” hay không? “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng” là cái gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp luật? Nó khác với “chủ nghĩa anh hùng” (chung chung) hay “chủ nghĩa anh hùng không cách mạng” như thế nào? Cái “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” ấy có thực sự là “của Nhân dân” hay không?

4.5.

Những mệnh đề “tuyên giáo” trong Hiến pháp 2013, như mấy ví dụ kể trên, thường có chung đặc điểm là mơ hồ về nội dung, rỗng và vô dụng về pháp lý, không cần thiết và cũng không nên xuất hiện trong một bản hiến pháp đích thực. Đó là kết quả của việc “tuyên giáo hóa” hệ thống giáo dục và đào tạo, khiến một số người đã “tu đủ các lò” có thể “đắc đạo” đến mức, dù đi đâu về đâu cũng không quên bản năng và trách nhiệm thuyết giáo. Kể cả khi tham gia viết Hiến pháp (là văn bản pháp lý lẽ ra chỉ chứa đựng những quy định cơ bản về quyền lợi và trách nhiệm của công dân, về nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức tổ chức của bộ máy nhà nước, và biện pháp kiểm soát nó), thì họ cũng không quên truyền giáo, và nhầm tưởng Hiến pháp cũng là giảng đường để triển khai công tác “tuyên giáo”.

  1. Chứng “Lan man”

Một đặc điểm phổ biến trong các bài “tuyên giáo” là hay “lan man”, nên ôm đồm về nội dungtùy tiện về ngôn ngữ. Đáng tiếc thay, khi các nhà “tuyên giáo” nhúng tay vào Hiến pháp, thì nó cũng bị lây nhiễm căn bệnh ấy. Thành thử, lẽ ra văn bản pháp luật phải được viết một cách mạch lạc, rõ ràng và chính xác, thì Hiến pháp 2013 lại chứa nhiều câu “lan man” kiểu “con cà con kê”, và lắm lúc kết thúc trong vô nghĩa.

5.1.

“Lan man” đến mức rơi vào thế quẩn, như trong Lời nói đầu của Hiến pháp 2013:

Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.”

Nếu “Nhân dân… đấu tranh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì đó chỉ là chuyện thường tình, đấu tranh vì hạnh phúc của bản thân thì có gì đáng nói? Hơn nữa, “Nhân dân” đã “hy sinh… vì hạnh phúc của Nhân dân”, thì còn ai để hưởng “hạnh phúc” nữa đây? (Có lẽ các tác giả muốn gắn từ “hy sinh” với chữ “đầy”, để chỉ “cuộc đấu tranh… đầy… hy sinh”, nhưng với câu viết lan man như thế, người đọc vẫn có quyền hiểu rằng “hy sinh” là động từ gắn trực tiếp với chủ ngữ “Nhân dân”.)

5.2.

“Lan man” đến mức đọc “mệt nghỉ”, như Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp 2013:

Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.”

Và nếu nghỉ giữa chừng, chưa kịp đọc hai chữ “của mình” nấp ở tận cuối câu, thì có thể thu được thông tin ngây ngô, chẳng hạn: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết…”

5.3.

“Lan man” đến mức quên cả… chủ ngữ, như trong Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013:

Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.”

Vâng, nếu không quên mất đang viết về chủ ngữ Ngườiăn lương, thì tại sao lại bỏ công hiến định rằng họ được hưởng lương? Hơn nữa, nếu “người làm công…” không nghiễm nhiên “được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”, nên vẫn phải đem cái thứ hiển nhiên ấy ra mà hiến định, thì hóa ra đây là chế độ chiếm hữu nô lệ hay sao?

5.4.

“Lan man” đến mức lạc hướng, khiến không chỉ người đọc bị nhầm, mà người viết cũng bị lẫn, như trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013:

“Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”

Ở đây, “trẻ em” không còn là một từ đơn, có thể đứng riêng lẻ và được vận dụng một cách độc lập, mà đã là một bộ phận cấu thành, không thể tách rời của từ ghép quyền trẻ em. Thành thử, “vi phạm quyền trẻ em thì có nghĩa, nhưng “hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động… quyền trẻ em thì hoàn toàn vô nghĩa.

5.5.

“Lan man” đến mức “tắc ngôn”, lâm vào “nghẽn ý”, như trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013:

Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”

Trẻ emđược tham gia vào các vấn đề về trẻ em – Nghe mới… âm u làm sao. Với xu hướng “phát triển dân chủ” này, liệu có ngày “thai nhi được tham gia vào các vấn đề về thai nhi” hay không?

Hiến định như vậy thì trẻ em được thêm cái gì? Và nếu không hiến định như vậy thì trẻ em bị mất đi cái gì? Thực tế trả lời ngắn gọn là KHÔNG! Vậy thì hiến định để làm gì?

Cái cao kiến ấy xuất xứ từ đâu? Có người giải thích rằng ý “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” được cóp từ “Công ước về Quyền trẻ em”. Nếu quả đó là giáo án, thì e rằng đã túm nhầm phao (xem Phụ lục III).

5.6.

“Lan man” đến mức sa đà vào ngạo mạn, đem cả những “gánh nặng không đâu” ra để “ban phát”, như trong Khoản 2 và Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp 2013:

“2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.”

“3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

“Thanh niên được… đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.”“Người cao tuổi được… phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Phải “được” Hiến pháp (tức là “được” nhà cầm quyền) cho phép, thì “thanh niên”“người cao tuổi” mới “được” gánh vác cái của “trời ơi” ấy hay sao?

5.7.

Vì sao Hiến pháp 2013 lại phạm phải những lỗi như đã trình bày trong phần 5 này? Không thể phủ nhận được sự ôm đồm và hạn chế trình độ của những người liên quan. Nhưng có lẽ còn một nguyên nhân khác là hiệu ứng “đẽo cày giữa đường”. Mỗi người, xuất phát từ vị trí, nhận thức và mối quan tâm của bản thân, đều cố đưa vào Hiến pháp vài ý nào đó. Nhiều người tham gia thì phải dung nạp nhiều ý, có thể không tương thích với nhau. Muốn người khác chấp nhận ý của mình, thì mình cũng phải tôn trọng ý của người khác. Vả lại, khi mỗi người chỉ được phát biểu trong một thời gian ngắn, đấu tranh để thực hiện và bảo vệ ý tưởng của mình chưa chắc đã xong, còn đâu thời gian để bàn sang chuyện của người khác. Thêm vào đó là sự bất lực cá nhân trước tập thể quá đông, cùng với sự lép vế trước “bề trên”. Và cả tâm lý “cha chung không ai khóc”, cộng hưởng với thói quen ỷ lại: “Dưới” thì nghĩ “đã có Trên lo”, còn “Trên” thì đinh ninh “đã có bọn Dưới làm”. Thành thử dễ sinh ra sản phẩm… hổ lốn.

  1. Chứng “Đại ngôn”

Một trong những điểm đặc trưng của Hiến pháp Việt Nam là hay dùng những từ to tát, toàn mỹ, để chỉ những điều phi thực tế, mà nhà cầm quyền chưa hay không bao giờ thực hiện được, hoặc thậm chí cũng chẳng hề có ý định thực hiện.

Để khắc họa chứng “đại ngôn” của Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần khảo sát sự vận dụng của từ “bảo đảm”, vốn dĩ chỉ xuất hiện khiêm tốn có 2 lần trong Hiến pháp 1946, nhưng tăng lên 17 lần trong Hiến pháp 1959, nhiều nhất là 35 lần trong Hiến pháp 1980, rồi lại giảm xuống còn 26 lần trong Hiến pháp 1992.

Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1997), từ “bảo đảm” có nghĩa là:

–      Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.

–      Nói chắc chắnchịu trách nhiệm về lời nói của mình để cho người khác yên lòng.

–      Nhận chịu trách nhiệm làm tốt.

Từ “bảo đảm” xuất hiện 28 lần trong Hiến pháp 2013. Đáng nói là, nhiều thứ được hiến định là “bảo đảm” lại không hề được “bảo đảm”, thậm chí còn bị chính bộ máy chính quyền xâm phạm thô bạo.

6.1.

Điều 34 Hiến pháp 2013 viết:

“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.”

Đây chính là Điều 35 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013. Bài “Teo dần quyền con người trong hiến pháp” đã phân tích và kết luận rằng: “Quyền được bảo đảm an sinh xã hội” thuộc loại “quyền hư quyền ảo”, tức là “một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi”.

Theo Công ước số 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization), thì 9 lĩnh vực chính của “an sinh xã hội” (social security) là: Chăm sóc về y tế, trợ cấp khi ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất. Chẳng cần khảo sát xem chất lượng thực hiện đã đạt mức gọi là “được bảo đảm hay chưa, vì có thể khẳng định rằng: Không một thứ nào trong số đó được triển khai ở Việt Nam trên quy mô toàn xã hội. Nếu có phần nào đó được thực hiện, thì chỉ dừng lại ở bộ phận tương đối nhỏ, mang tính “đặc ân”, trước hết dành cho những người được coi là có công với chế độ.

Đôi khi, một số hoạt động mang tính từ thiện cũng được tổ chức cho đối tượng dân thường, nhưng không phải chỉ vì tình thương bao la, mà còn nhằm trang trí cho chế độ. Theo thông tin được đăng tải trên Báo Điện tử ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Từ năm 2011- 2013 nguồn lực dành cho hộ nghèo tăng lên khoảng 120 nghìn tỷ đồng/năm. Chỉ riêng “nguồn lực dành cho hộ nghèo” mà đã tương đương với 14,7% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước (816 nghìn tỷ đồng cho năm 2013), thì không phải là ít. Song tiêu chí đánh giá không thể dừng lại ở chỗ chi bao nhiêu, mà phải là: Chi thế nào? Số tiền đó đi đâu? Có đến tay người nghèo hay không?

Theo bài “Ai giám sát tiền hỗ trợ giảm nghèo?” của Nguyên Khánh, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 29/9/2013, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã thừa nhận rằng:

“Bộ máy quản lý các chương trình, dự án giảm nghèo quá đồ sộ. Tỷ lệ chi cho hành chính, sự nghiệp chiếm hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được… Thế nên mới có chuyện tiếng là các nguồn hỗ trợ người nghèo lên tới gần 200 triệu/hộ/năm, nhưng thực tế thì mỗi hộ nghèo chỉ tiếp cận được từ 10 – 15 triệu đồng/năm.”

Qua đó, có thể hình dung ra mục tiêu và hiệu quả của một số chính sách giúp đỡ người nghèo và phục vụ “an sinh xã hội” (ví dụ như xây nhà ở xịn giữa đô thị đắt đỏ để bán cho người nghèo).

Rõ ràng, những hoạt động kiểu ấy không chỉ là lấy tiền ngân sách chi cho người nghèo, mà còn là cách lấy tiền ngân sách nhân danh người nghèo. Kết quả là: Đã tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng “an sinh xã hội” còn cách rất… rất xa cái mức có thể coi là “bảo đảm”.

Hãy lấy việc chăm sóc về y tế làm ví dụ. 4-6 người bệnh phải chung nhau một giường, như được phản ánh trong bài “Một năm viện phí mới: Giường ghép, nỗi khổ chưa chấm dứt” của Lan Anh và Quỳnh Liên, đăng trên báo Tuổi trẻ Online ngày 26/9/2013. Như thế có lẽ vẫn còn may mắn hơn so với những “Bệnh nhân ‘bò từ gầm giường’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, như được mô tả trên báo Người đưa tin ngày 15/1/2013. (Xem thêm “Chùm ảnh: Bệnh nhân ‘bò’ ra đón Bộ trưởng Y tế”, với Ảnh 6Ảnh 7 được lấy từ đó.)

 

Ảnh 6: Bệnh nhân ‘lóp ngóp’ dưới gầm giường (Nguồn: Người đưa tin)

 

Ảnh 7: Bệnh nhân và người nhà chen chúc (Nguồn: Người đưa tin)

Nhẫn tâm thay,

“bất chấp hậu quả khôn lường cho bệnh nhân, một phiếu xét nghiệm huyết học ở Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) được khoa Xét nghiệm “nhân bản” để dùng luôn cho 2-5 bệnh nhân… 1.000 kết quả xét nghiệm huyết học được dùng  cho ít nhất 2.000 bệnh nhân (trung bình một kết quả phiếu xét nghiệm được sử dụng cho 2-5 bệnh nhân)… Thí dụ, một kết quả xét  nghiệm huyết học vào hồi 9h3 phút ngày 19.2.2013 được dùng cho 4 bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên – 70 tuổi, chẩn đoán lao phổi; Nguyễn Trung Nghĩa – 27 tuổi, chẩn đoán áp-xe cạnh hậu môn; Lý Thị Vân – 61 tuổi, chẩn đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp đang nằm ở khoa Hồi sức cấp cứu và cháu Lương Kiều Trang – 12 tuổi, chẩn đoán viêm ruột thừa.”

Đấy là điều mà Vương Hà đã thuật lại trong bài đăng trên báo Dân trí ngày 5/8/2013.

Bao chuyện tiêu cực xảy ra hàng ngày, hàng giờ, ở khắp nơi, từ địa phương đến trung ương, nhiều không kể xiết… Thêm vào đó là những vụ vô tình… làm chết người, như tiêm nhầm thuốc gây co bóp tử cung khiến 3 trẻ sơ sinh tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa… Thử hỏi, tình hình “chăm sóc về y tế” (lĩnh vực số một của “an sinh xã hội”) bi đát như vậy, thì có thể coi là được bảo đảm, tức là được “làm tốt”có đầy đủ những gì cần thiết”, hay không?

Muốn bảo đảm an sinh xã hội” thì phải có đủ tiền của, để chăm sóc chu đáo về y tế cho mọi người; để trợ cấp đáng kể cho người ốm đau, người thất nghiệp, người già, người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; để trợ cấp cho người tàn tật… Và điều đó phải tiến hành trên quy mô toàn xã hội, dành cho cả những người nghèo không có khả năng đóng các loại bảo hiểm. Mấy chục năm nữa, chưa chắc xã hội Việt Nam mon men đến được cái đích ấy. Vậy thì tại sao bây giờ lại đại ngôn mà viết vào Hiến pháp là bảo đảm an sinh xã hội” cho mọi công dân?

Bạn đừng tưởng đó là sơ hở pháp lý, để rồi tận dụng mà kiện chính quyền. Bởi Điều 34 Hiến pháp 2013 đã được viết với kỹ năng chính trị cao cường, nên đem lại dáng dấp oai phong, mà vẫn chẳng tạo ra gánh nặng nào cho Nhà nước. Nó chỉ hiến định công dân có quyền được được bảo đảm…”, nhưng không xác định “ai phải bảo đảm…”, nên nhà cầm quyền vẫn có thể lẩn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn, nếu công dân nào đó đòi được trợ cấp…, trong khuôn khổ của cái gọi là “bảo đảm an sinh xã hội”, thì có thể nhận được câu trả lời theo kiểu “Trời sinh voi thì Trời phải sinh cỏ”, rằng ai sinh ra ngươi thì phải “bảo đảm” những quyền lợi ấy cho ngươi. Như vậy, Nhà nước vừa được ca ngợi, vừa vẫn “vô can”.

6.2.

Khoản 3 Điều 55 Hiến pháp 2013 viết:

“Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.”

“Bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” – Nghe thật tuyệt đối và to tát, nhưng vấn đề là: Nhà nước có “ổn định” nổi không? Lấy cái gì để đo mức “ổn định”?

Theo thông tin về tỷ giá ngoại tệ trên website của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), giá mua chuyển khoản ngày 10/2/2009 là 17.483 Đồng/USD, 22.372 Đồng/EUR, và ngày 10/2/2014 là 21.080 Đồng/USD, 28.569 Đồng/EUR. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 83% so với USD và chỉ còn 78% so với EUR.

Theo thông tin trên Sài Gòn Giải phóng Online, giá mua vàng SJC ngày 10/2/2009 là 18.610.000 Đồng/lượngngày 10/2/2014 là 35.420.000 Đồng/lượng. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 53% so với vàng SJC.

Giá trị Đồng Việt Nam giảm nhiều như vậy, mà Quốc hội lại thông qua Hiến pháp viết rằng “Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia”, thế thì có quá đại ngôn hay không?

6.3.

Khoản 2 Điều 61 Hiến pháp 2014 viết:

Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí…”

Nhà nước bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc có nghĩa là phải tạo điều kiện để mọi người đều có khả năng hoàn thành chương trình “giáo dục tiểu học”. “Nhà nước không thu học phí” là góp phần thực hiện mục tiêu ấy, nhưng đó mới chỉ là một phần tương đối nhỏ. Để có thể đi học, trẻ em phải được ăn no, mặc ấm, phải có sách vở, giấy bút… Dù xã hội giàu đến đâu, thì vẫn có những bố mẹ không đủ khả năng thỏa mãn những nhu cầu ấy của con cái. Trong trường hợp đó, chính Nhà nước phải trợ cấp phần thiếu hụt, để trẻ em có điều kiện sinh sống tối thiểu mà đi học tiểu học. Liệu Quốc hội đã nghĩ đến trách nhiệm này hay chưa? Liệu Nhà nước có định “bảo đảm” chu cấp nuôi hàng triệu trẻ em ở độ tuổi giáo dục tiểu học hay không? Và có khả năng kinh tế để triển khai dự định ấy hay không? Hay chỉ đại ngôn cho sướng, cho oai?

6.4.

Điều 96 Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây”:

“3. … thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;”

“6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;”

Theo giải nghĩa trong “Từ điển tiếng Việt” về từ “bảo đảm” (như đã trích ở trên), thì Điều 96 đòi hỏi Chính phủ phải chắc chắn giữ gìn được tính mạng, tài sản của Nhân dân”chắc chắn giữ gìn được trật tự, an toàn xã hội”.

Trên thực tế, “tính mạng, tài sản của Nhân dân”“trật tự, an toàn xã hội” được Chính phủ “bảo đảm” như thế nào? Hãy nghe Phương Bích tâm sự:

Báo chí đưa tin nạn trộm chó hoành hành khắp các miền quê. Người dân bảo vệ chó của mình thì bị trộm đánh trả. Thậm chí chỉ vì bảo vệ chó mà chủ thiệt mạng. Kết quả là người dân hợp lực nhau lại, đánh chết kẻ trộm chó trong cơn cuồng nộ.”

“Chuyện nợ nần trong làm ăn, người ta không mấy khi nhờ cậy đến pháp luật giải quyết, vì họ biết thừa không có hiệu quả. Thế mới sinh ra các nhóm đòi nợ xã hội đen đỏ tím vàng… Và lúc đó thì pháp luật lại ra tay trị kẻ đi đòi nợ…”

Tôi rất muốn hỏi các quý vị người nhà nước, dân chúng tôi phải làm gì khi pháp luật không có tác dụng bảo vệ quyền lợi và tính mạng của mình?”

Một trong những chuyện đau lòng mới xảy ra là vụ đứt cáp cầu treo nối bản Chu Va 8 với Chu Va 6 ở xã Sơn Bình (Tam Đường, Lai Châu) vào sáng 24/2/2014, khiến hơn 40 người rơi xuống suối, 8 người chết và 33 người khác bị thương. Chẳng nhẽ đó cũng là kết quả “bảo đảm” của Chính phủ hay sao?

Thực ra, không một Chính phủ nào trên Thế giới này có thể “bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” và “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”! Hùng mạnh như Chính phủ Mỹ mà cũng đành bất lực… Không “bảo đảm” nổi tính mạng của Tổng thống, thì làm sao có thể “bảo đảm” được tính mạng của người dân? Không “bảo đảm” nổi sự an toàn của tòa tháp đôi World Trade Center, biểu tượng tự hào sừng sững giữa trung tâm thành phố New York, cùng với tính mạng của hàng nghìn làm việc trong đó, thì làm sao có thể “bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân” “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” ở những nơi hẻo lánh xa xôi?

Dù cố gắng đến đâu, thì vẫn buộc phải chấp nhận thực tế: Luôn có những người bị thiệt mạng (vì tai nạn hoặc vì bị hãm hại). Luôn có những tài sản của Nhân dân bị hủy hoại (vì thiên tai, hỏa hoạn… hoặc vì bị phá hoại). Và luôn tồn tại những sự cố về trật tự, an toàn xã hội.

Nếu viết “Chính phủ có nhiệm vụ… bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, … bảo vệ trật tự, an toàn xã hội”, thì còn hợp lý và khả thi. Đằng này, thay vì dùng từ “bảo vệ”, Quốc hội lại dõng dạc hiến định là “bảo đảm”, vậy thì có quá đại ngôn hay không?

Lỗi tương tự cũng xuất hiện trong Điều 67 Hiến pháp 2013:

“Nhà nước xây dựng Công an nhân dân… làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”

Một trong những ví dụ chỉ ra “Công an nhân dân… bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thế nào được mô tả trong bài “Vết rạn sau vụ giết bạn chấn động” của Đàm Đệ.

Còn nhiều thứ “bảo đảm” khác, sẽ được đề cập tiếp trong phần 7Phụ lục IV.

6.5.

Đại ngôn là tập quán phổ biến ở mọi chính trường trên Thế giới. Nhưng đại ngôn tràn lan cả trong hiến pháp, thì chỉ có thể là đặc sản của nhà nước mà thế lực cầm quyền xa lạ với trách nhiệm. Nếu quan niệm rằng “nói phét không mất tiền”, nghĩa là không phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói, thì tội gì mà không nói cho oai?

Đại ngôn bị vung vãi dễ dãi trong Hiến pháp khi thế lực cầm quyền chỉ muốn tô vẽ để tự ngợi ca, mà không hề có ý định thi hành trên thực tế. Tệ nạn ấy không chỉ bắt nguồn từ tập quán hứa bừa, mà còn bám rễ trong truyền thống mạo công. Làm một kể mười, thậm chí không làm cũng điềm nhiên nhận công. Cái chứng bệnh ấy lây lan khắp nơi, càng lên cao thì bệnh càng trầm trọng. Hãy xem những bia đá được chưng ra nơi nơi, từ công viên đến đền chùa và các loại di tích, để kể công vị này ngài nọ đã trồng cây, cái cây mà nhiều người cùng trồng cùng tưới, nhưng công lao lại chỉ được gán cho đúng một người – cái người đóng góp ít công sức nhất. Tệ hại hơn, có lẽ để tương xứng với cái bia đá to đoành, hay vì sợ cây non không kịp lớn trước khi vị nọ “giải nghệ hoàn dân”, nên người ta bứng cả những cây to đã tồn tại lâu năm, để diễn trò tái trồng mầm… già.

Quyền trong tay thì cứ việc ra tay, nhưng đừng quá chủ quan cho rằng đại ngôn luôn vô hại. Về lý mà nói, một khi đã hiến định là Nhà nước hay Chính phủ “bảo đảm” thứ gì đó, thì người dân có quyền kiện những người đứng đầu Nhà nước hay Chính phủ khi thứ ấy không được “bảo đảm”. Nếu bịt tai phớt lờ hay trả thù người khiếu kiện thì lại bị dư luận lên án là chà đạp “nhà nước pháp quyền”. Đại ngôn có sướng đến mức đáng để chuốc lấy “hậu quả không đâu” ấy hay không?

  1. Chứng “Bất chấp”

Khi “đại ngôn” thì ít nhiều đã “bất chấp”. Nhưng trong phần này, ta chỉ đề cập đến một số điều hiến định thuộc loại rất bất chấp thực tế.

7.1.

Hai khoản đầu của Điều 2 Hiến pháp 2013 là:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”

“2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”

Nhà nước này có phải là “nhà nước pháp quyền”, “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” hay không? Nước này có phải là “do Nhân dân làm chủ” “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” hay không? Thông qua thực tế, nhà cầm quyền đã liên tục đưa ra câu trả lời phủ định. Ở đây, chỉ cần đề cập một ví dụ: Việc cương quyết không chấp nhận để Nhân dân phúc quyết Hiến pháp đã chứng tỏ, rằng Nhà nước này không phải “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”! Và cái gọi là “Nhà nước… do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” chỉ là chuyện hư cấu bất chấp thực tế mà thôi.

Không phải hiến pháp nước nào cũng được đem ra phúc quyết toàn dân. Khi không có ai đòi đem Hiến pháp ra phúc quyết, thì cũng chẳng nhất thiết phải phúc quyết. Khi bộ máy cầm quyền thừa sức ngụy tạo ra kết quả bỏ phiếu theo ý muốn của họ, thì cũng chẳng nên kỳ vọng vào giá trị khách quan của việc phúc quyết. Nhưng nếu một lực lượng công dân đòi hỏi phải đem Hiến pháp ra phúc quyết toàn dân, thì không ai có quyền phủ quyết đòi hỏi đó. Bởi về lý mà nói, dù có quyền cao, chức trọng đến đâu trong bộ máy cầm quyền, thì bất cứ ai cũng chỉ là công dân bình đẳng với mọi công dân.

Giả sử các đại biểu Quốc hội được Nhân dân bầu ra một cách thực sự dân chủ (tiếc rằng thực tế không phải như vậy), thì Nhân dân cũng chỉ trao cho họ quyền đại diện về những điều mà họ đã thể hiện và tuyên bố công khai trước toàn thể cử tri, từ trước khi họ được bầu, và cử tri đã dựa vào đó để bầu họ. Nếu trước khi đắc cử tuyên bố sẽ ủng hộ “phương án A”, thì sau đó không thể nhân danh đại biểu của Nhân dân để phản đối “phương án A”. Nếu trước khi bỏ phiếu, cử tri không được biết gì hơn về các ứng cử viên ngoài mấy dòng lý lịch trích ngang vô hồn, thì người đắc cử không thể nghiễm nhiên cho rằng mình đã được cử tri ủy thác quyết định bất cứ việc gì. Không thể quan niệm rằng Nhân dân đã trao cho đại biểu Quốc hội quyền quyết định mọi vấn đề, như thể trao cho họ tập séc khống, muốn ghi gì và ghi bao nhiêu vào đó cũng được.

Chưa bao giờ Nhân dân ủy thác cho Quốc hội phủ định quyền phúc quyết của Nhân dân. Vì vậy, nếu muốn phản đối việc phúc quyết Hiến pháp, thì đại biểu Quốc hội phải tổ chức lấy biểu quyết cử tri mà mình đại diện, xem đa số cử tri có ủng hộ dự định đó hay không. Chẳng hề xin ý kiến cử tri, mà Quốc hội vẫn ngang nhiên bác bỏ đòi hỏi phúc quyết Hiến pháp của một lực lượng công dân, thì đó là bằng chứng cho thấy: Quốc hội đã bất chấp thực tế khi khẳng định trong Hiến pháp rằng Nhà nước này là “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ” và “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

7.2.

Điều 4 Hiến pháp 2013 viết:

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam… đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
  2. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Như đã phân tích trong bài Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp, tất cả các nội dung được trích ở trên đều thuộc dạng “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”. Thay vì viết rõ đó là những đòi hỏi mà ĐCSVN phải chấp nhận và phải thực hiện, thì họ lại cố tình bỏ đi mấy chữ “phải”, biến các đòi hỏi pháp lý thành những mệnh đề khẳng định, như thể ĐCSVN đã và đang đạt được những điều mà trên thực tế không hề đạt.

Vốn dĩ, Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng rằng:

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”

Nay nội dung trên được “hóa thân” tại Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 như sau:

“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”

Vậy là trách nhiệm hiến định phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật” của “các cơ quan Nhà nước”“đơn vị vũ trang nhân dân” không còn nữa. Thay vào đó, chỉ còn hiến định là “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”, tức không hề có từ phải, hay tương tự, để thể hiện trách nhiệm hiến định. Nghĩa là, học theo tấm gương xấu của Điều 4, Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 cũng trở thành dạng “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như thể “Nhà nước đang được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”, bất chấp thực tế mà người người đều rõ.

7.3.

Điều 3 Hiến pháp 2013 viết:

“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”

“Quyền làm chủ của Nhân dân” là gì? Cái này mờ ảo như trời cao, nên thôi, không bàn ở đây. Còn “quyền con người, quyền công dân” thì cụ thể hơn, thiết thân hơn, nên buộc phải đặt ra câu hỏi: “Nhà nước… bảo đảm quyền con người, quyền công dân” như thế nào?

Như ta đều biết, quyền con người, quyền công dân thường xuyên bị bộ máy cầm quyền xâm phạm, ví dụ như trường hợp “Bốn công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một thanh niên”. Để tránh bị lên án, khi ra tay chỉ lớp quan chức dưới cùng mới xuất đầu lộ diện. Kín kẽ hơn, họ huy động cả đám “quần chúng bức xúc” hay “côn đồ tự phát” để “ném đá dấu tay”. Thậm chí, cho cả sĩ quan công an giả dạng dân thường, như trường hợp công an giả làm thợ cưa đá dưới chân tượng Lý Thái Tổ vào sáng 19/1/2014, để ngăn cản một số công dân dâng hương hoa, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh, nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc. Nhưng những màn kịch ấy không thể ngụy trang, che dấu được trách nhiệm của các cấp lãnh đạo. Ai cũng hiểu rằng: Nếu lãnh đạo cấp trên không đồng tình, không đứng sau những trò hề ấy, thì họ đã chấn chỉnh, ra lệnh cho cấp dưới chấm dứt ngay những hành động vi hiến, phi pháp, đàn áp người dân thực thi các quyền hiến định.

Điều khiến lãnh đạo tầng trên cùng, từ Bộ trưởng trở lên, không thể phủ nhận trách nhiệm, là chính họ ký tên ban hành các văn bản pháp quy vi hiến và phi pháp để phủ định quyền con người, quyền công dân, như đã đề cập trong bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền”. Qua đó ta thấy rõ, Điều 3 Hiến pháp 2013 bất chấp thực tế đến mức nào. Thiết tưởng cũng chẳng cần bàn thêm, nhưng tiện đây, xin bổ sung thêm một ví dụ tương đối mới.

Theo thông tin trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 24/2/2014, Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đã phát đến từng hộ dân “Phiếu Tố giác Tội phạm” (xem Ảnh 8). Trong đó, “Kích động, nói xấu chế độ”tội số một, “Vận động khiếu kiện tập thể”tội đứng thứ hai, trên cả tội “cướp của”. Đây là một bằng chứng hùng hồn về việc bộ máy cầm quyền vi phạm quyền con người, quyền công dân.

 

Ảnh 8: Phiếu Tố giác Tội phạm do Công an phát cho các hộ dân (Nguồn: Bauxite Việt Nam

Lạ thay cái tội “nói xấu chế độ”! Không ai có thể phủ định thực tế, là chế độ này không thiếu biểu hiện xấu. Xấu đến mức Chủ tịch nước Trương Tấn San phải gọi một số đồng chí là “bầy sâu”. Và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thi Doan cũng thừa nhận: “Người ta ăn của dân không từ cái gì”. Nếu ai đó nói về những cái xấu ấy của chế độ, thì cũng chỉ là phản ánh cái sự thật mà muôn người đều biết, trong khuôn khổ tự do ngôn luận, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Tại sao lại quy kết người “nói xấu chế độ đúng sự thật”“tội phạm”, rồi ra tay trừng phạt? Đó là “công lý xã hội chủ nghĩa” hay sao?

Lẽ ra, chỉ nên coi những người “bịa đặt về chế độ”“tội phạm”. Song khi đó, phải kết tội tất cả những ai “nói không thành có”, kể cả những vị thường bịa đặt những chuyện tốt không có thật để gán cho chế độ, cái hành vi thường được coi là “ca ngợi chế độ”. Tội bịa đặt để “ca ngợi chế độ” rất đáng bị trừng phạt. Bởi nó làm hại người dân, khiến họ ấm ức, phải chịu đựng lâu hơn những nỗi khổ bị thuyết minh là hạnh phúc. Mặt khác, nó làm hại chính bản thân chế độ, vì thôi miên và đánh lừa bộ máy cầm quyền: Đang mang trong mình những khối u ác tính, mà lại bị lừa (và tự lừa) là vẫn khỏe mạnh, nên chủ quan, không chịu điều trị kịp thời, đợi đến khi di căn khắp nơi, thì… vô phương cứu chữa.

Đặc biệt, trong “Phiếu Tố giác Tội phạm”, “Vận động khiếu kiện tập thể” bị coi là “tội” thuộc phạm trù “An ninh chính trị”. Trên thực tế, “khiếu kiện tập thể” thường bắt nguồn từ lý do kinh tế, không vì mục tiêu chính trị. Tước quyền sử dụng đất của bao nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, mà bồi thường không thỏa đáng, thì đương nhiên các nạn nhân phải cùng nhau bảo vệ tài sản của mình. Và nếu tự vệ không nổi, thì phải cùng nhau khiếu kiện, gọi là “khiếu kiện tập thể”, để đòi lại công bằng. Hành động hợp tình, hợp lý như vậy, mà lại bị chính quyền cản cấm và đàn áp, thì dù ngu ngơ đến đâu cũng có thể đoán ra vai trò giật dây của thế lực tham nhũng. Cho nên, nhiều khi “vận động khiếu kiện tập thể” cũng là “vận động tập thể chống tham nhũng”. Coi “vận động tập thể chống tham nhũng”“tội” đe dọa “an ninh chính trị”, tức là “tội chống chế độ”, thì chẳng khác nào khẳng định rằng “tham nhũng là bản chất của chế độ này”, nên “chống tham nhũng là chống chế độ”. Hay đó chỉ là hành vi xuyên tạc của thế lực cầm quyền, “nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng”?

Như đã chỉ ra trong bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền”, Điều 74 Hiến pháp 1992 hiến định “quyền khiếu nại” không hạn chế; Luật khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 chấp nhận đích danh việc “nhiều người khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung” “cử đại diện để trình bày”, nghĩa là chấp nhận những vụ khiếu nại của nhiều người cùng đứng tên. Cho nên, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 04/2010/TT-TTCP, trong đó không chấp nhận “đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người”, là hành vi vi phạm thô bạo Hiến pháp và luật. Điều 30 Hiến pháp 2013 tiếp tục hiến định “quyền khiếu nại” không hạn chế. Thêm vào đó, Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật. Vì nghị định và thông tư không phải là luật, nên tính vi hiến của Nghị định số 136/2006/NĐ-CPThông tư số 04/2010/TT-TTCP càng trở nên rõ ràng hơn. Như vậy, không có bất kỳ văn bản pháp lý hợp hiến nào cho phép nhà cầm quyền khước từ “khiếu kiện tập thể”.

Việc vận động khiếu kiện tập thể” thuộc quyền công dân, trong khuôn khổ tự do hội họp, lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. Thế thì tại sao công an lại coi hành động ấy là tội, thậm chí là trọng tội?

“Phiếu Tố giác Tội phạm” có vi hiến, phi pháp hay không? Điều đó đã quá rõ, nhưng các tác giả khoác áo công an hoàn toàn không quan tâm. Họ chỉ viết ra những tư duy sai trái đã ngấm sâu vào tiềm thức và hóa thành bản năng. Đó mới là điều đáng lo ngại.

Độc tài có nghĩa là phi dân chủ. Đã phi dân chủ thì thường vi phạm quyền con người, quyền công dân. Cho nên, nếu nói bộ máy độc tài bảo đảm quyền con người, quyền công dân”, thì quả là hoang đường, bất chấp thực tế.

7.4.

Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013 viết:

“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn…”

Để hiểu “điều kiện làm việc công bằng” như thế nào, hãy đọc bài của Hữu Công đăng trên VnExpress ngày 27/8/2013:

“Công ty TNHH một thành viên Thoát nước đô thị chi lương cả năm 2012 cho Giám đốc là 2,6 tỷ đồng (hơn 200 triệu đồng mỗi tháng), Chủ tịch Hội đồng thành viên 1,6 tỷ đồng, Kế toán trưởng 1,67 tỷ đồng, Phó giám đốc 969 triệu đồng. Trong khi đó, lương bình quân người lao động mùa vụ tại công ty này là 5,4 triệu đồng mỗi tháng.”

Ai là người phải trả giá cho mức lương “công bằng” của các vị Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Kế toán trưởng, Phó giám đốc? Hiển nhiên, những người lao động “thấp cổ bé họng” thuộc vào số đó:

“Công ty Thoát nước đô thị bị kết luận “vi phạm quy định của Bộ luật Lao động” khi ký hợp đồng mùa vụ với thời hạn dưới 3 tháng đối với 163 người lao động thường xuyên và ký hợp động có thời hạn 3 năm đối với 355 trường hợp đủ điều kiện ký hợp đồng không xác định thời hạn.”

Thật là “công bằng” hết chỗ nói!

Để đánh giá “điều kiện làm việc… an toàn” đến mức nào, hãy nhớ lại vụ sập cầu Cần Thơ vào sáng ngày 26/7/2007, khiến hơn 50 người bị chết và gần 200 người bị thương. Một năm sau tai nạn khủng khiếp đó, ngày 2/7/2008 Ủy ban Nhà nước Điều tra sự cố sập hai nhịp cầu dẫn cầu Cần Thơ đã công bố Báo cáo tóm tắt về kết quả điều tra, rằng

“việc xảy ra lún lệch trong phạm vi hẹp của một đài móng trụ tạm, nguyên nhân chính khởi nguồn gây ra sự mất an toàn kết cấu trong trường hợp này, có thể xem là tình huống rủi ro, khó lường trước trong thiết kế thông thường.”

Tình huống rủi ro, khó lường trước” có nghĩa là “lỗi tại Trời”. Không phải do thiết kế sai. Không phải do thi công sai. Không phải do bớt xén nguyên liệu. Vậy là hòa cả làng. Chỉ các nạn nhân là có lỗi, do xuất hiện không “đúng nơi, đúng lúc”, nên đành phải “chết… đúng quy trình”. Một công trình phức tạp như thế, mà

Trong số gần 200 nạn nhân đó hầu hết là những nông dân, người lao động phổ thông làm công nhật tại những chợ lao động quanh tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ, có cả những người bị nạn “oan” khi mượn thẻ lao động của công nhân để đi làm chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản…”

Sử dụng cả “nông dân mặc áo công nhân”, “chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật cơ bản”, để xây cầu “siêu cấp”, thì không bị sập mới là chuyện lạ.

Nếu ai cho rằng đó chỉ là chuyện của quá khứ xa xôi, thì nên xem thêm bài tổng hợp “Những sự cố xây dựng nghiêm trọng năm 2012” của Đỗ Tuyết trên báo Giáo dục Việt Nam (đăng ngày 24/12/2012), để ôn lại vụ sập giàn giáo tại Khu đô thị mới Mỗ Lao ở Hà Nội vào ngày 21/2/2012 (khiến nhiều công nhân rơi từ tầng 7 cao ốc – 6 người thương nặng, 1 người chết”); vụ sập giàn giáo tại công trường xây dựng nhà Nam Đô Complex ở Hà Nội vào ngày 5/11/2012 (khiến hai công nhân rơi từ tầng 18″ và tử vong)… Trong bài đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 26/2/2014), Nguyễn Dân viết: “Năm 2013, toàn quốc đã xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 627 người chết, hơn 6.000 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất lên tới hơn 70 tỉ đồng.”

Hiển nhiên, trong một nền kinh tế thị trường, được cộng hưởng bởi tham nhũng hoành hành, thì không có cái gọi là điều kiện làm việc công bằng”. Cũng hiển nhiên không kém, trong mọi chế độ, tai nạn lao động là điều khó tránh khỏi một cách tuyệt đối. Vậy thì tại sao Quốc hội lại bất chấp thực tế mà hiến định rằng “Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn”?

7.5.

Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 viết:

“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.”

Ngay cả với chế độ này, thì “tranh tụng trong xét xử” cũng không phải khái niệm quá xa lạ. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ban hành ngày 2/1/2002, đã xác định:

Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định.”

Nhưng nghị quyết nào cũng tỏ ra vô dụng, nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử” hầu như không được tôn trọng trên thực tế. Để minh họa, chỉ cần nhắc đến trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn, trú tại xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, người còn may mắn được minh oan sau 10 năm chấp hành án phạt chung thân về tội “giết người”. Nguyên nhân dẫn đến án oan sai đã được Nguyễn Trường thuật lại trên báo Tiền phong ngày 7/11/2013:

“Luật sư Nguyễn Đức Biền, người được chỉ định bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm trước, từng chỉ ra 5 điểm thiếu sót trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các ý kiến của ông không được xem xét thỏa đáng…”

Và ông Biền đã khẳng định:

“Tôi cho rằng, đây là sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng, nhưng đáng tiếc Hội đồng xét xử không hề để ý gì đến các lập luận của luật sư cũng như sự phản cung của bị cáo tại phiên tòa. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới kết luận một cách phi lý của Hội đồng xét xử, khẳng định ông Chấn giết người một cách oan ức.”

Đây không phải là trường hợp cá biệt, mà là một ví dụ điển hình. Khi phán quyết theo “bản án bỏ túi” đã trở thành thông lệ, thì hiển nhiên quan tòa không chấp nhận “tranh tụng trong xét xử”. Vậy nên, khẳng định trong Hiến pháp rằng “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là hoàn toàn bất chấp thực tế.

7.6.

Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:

Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Vốn dĩ, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013, thì điều này chỉ chứa đúng 5 chữ:

Điều 21 Mọi người có quyền sống.”

Bài “Teo dần quyền con người trong Hiến pháp” đã chỉ ra rằng: Đó là một mệnh đề vừa vô nghĩa, vừa giả tạo, nếu nhà cầm quyền vẫn có ý định duy trì án tử hình, bởi vì tử hình bất kỳ ai cũng là vi phạm “quyền sống” của người ấy.

Phải chăng nội dung “nghe rất kêu” ấy được chép từ Điều 3 của The Universal Declaration of Human Rights (“Tuyên bố chung về Quyền con người”, thường được dịch ra tiếng Việt là “Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền”), được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948? Có điều, “Tuyên bố” hay “Tuyên ngôn” không nhất thiết có giá trị pháp lý, tức là không bắt buộc mọi quốc gia đều phải thực hiện, nên một số nước đã ký tán thành vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Còn nếu mệnh đề “Mọi người có quyền sống” đã được ghi vào Hiến pháp của nước nào (ví dụ như trong Khoản 2 Điều 2 của Hiến pháp Đức), thì Nhà nước đó không thể duy trì án tử hình.

Lý lẽ ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình không chỉ xuất phát từ lý do tín ngưỡng hay nhân đạo, mà còn vì trên thực tế không hiếm những bản án oan sai. Nếu còn sống thì còn có cơ hội được minh oan, nhưng nếu xử tử rồi mới phát hiện oan sai, thì sửa sai bằng cách nào? Theo thông tin của tổ chức Amnesty International (Ân xá Quốc tế), tính đến năm 2012 có khoảng 2/3 các nước trên Thế giới đã xóa bỏ án tử hình ra khỏi luật, hoặc xóa bỏ án tử hình trên thực tế (98 nước xóa bỏ án tử hình trong luật đối với mọi tội, 7 nước xóa bỏ án tử hình trong luật cho các tội thông thường, 35 nước xóa bỏ án tử hình trên thực tế).

Nếu thuộc vào số 1/3 các nước trên Thế giới vẫn duy trì án tử hình, thì có thể coi quy định về “Quyền sống” trong European Convention on Human Rights (Công ước châu Âu về Nhân quyền) là một hình mẫu đáng tham khảo:

Điều 2 Quyền sống

  1. Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật. Không được cố ý tước mạng sống của bất kỳ ai, trừ trường hợp thi hành án tử hình, do tòa tuyên án đối với tội danh mà luật có quy định án tử hình.
  2. Việc tước mạng sống không bị coi là vi phạm điều này, nếu nó bị gây ra bởi sử dụng vũ lực không vượt quá mức tuyệt đối cần thiết, nhằm:

(a) bảo vệ ai đó trước bạo lực phi pháp;

(b) tiến hành bắt giữ đúng luật, hay ngăn cản người bị giam giữ đúng luật bỏ trốn;

(c) dẹp tắt một cách đúng luật một cuộc nổi loạn hay nổi dậy.”

Quy định này không hề khẳng định “Mọi người có quyền sống”, mà chỉ có mệnh đề “Quyền sống của mọi người được bảo vệ bằng luật”. Đáng lưu ý là: “Bảo vệ” chứ không phải là “bảo đảm”!

Lẽ ra, sau khi được góp ý, thì đơn giản nhất là loại bỏ mệnh đề “Mọi người có quyền sống” ra khỏi bản Dự thảo. Song có thể vì quá sĩ diện, họ vẫn cố bảo lưu nó đến cùng, rồi bổ sung hai mệnh đề “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” để “chữa cháy”. Nhưng càng chữa càng cháy, càng sửa thì càng sai…

Nội dung và ý nghĩa của mệnh đề Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ” là gì? Khi tuyên bố như thế thì pháp luật sẽ có thêm quy định hay thủ thuật gì khác, so với trường hợp tính mạng con người không được pháp luật bảo hộ”? Những đặc điểm nhận dạng nào có thể giúp ta phân biệt loại “pháp luật bảo hộ” với loại “pháp luật không bảo hộ tính mạng con người”? Với những điều khoản “bảo hộ” bổ sung thì tính mạng con người có an toàn hơn hay không? Câu trả lời sẽ cho thấy “nồng độ pháp lý” của mệnh đề … được pháp luật bảo hộ” chỉ xấp xỉ… 0%. Và đó cũng là đặc điểm điển hình của nhiều điều khoản “ưu việt” trong Hiến pháp Việt Nam.

Có lẽ “sứ mạng” của mệnh đề “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” chỉ là “đánh tiếng”, rằng tuy tuyên bố “Mọi người có quyền sống”, nhưng thực ra vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Với lối “nói lấy được”, bất chấp nội dung câu chữ, Điều 19 Hiến pháp 2013 trở thành “siêu vi hiến”, bởi vì nó mâu thuẫn với chính nó.

Trớ trêu thay, hàng ngày trên toàn quốc có bao người “bị tước đoạt tính mạng”, do cố ý giết người để cướp của hay vì ân oán, do ngộ sát hay tai nạn giao thôngNhà nước, với tất cả các thủ thuật pháp luật và bộ máy vũ trang khổng lồ, không thể “bảo đảm” các nạn nhân tránh được cái chết. Ngược lại, một số người dân còn bị chính công an hãm hại.

Hãy xem bài “Khởi tố 4 công an xã đánh chết người tại trụ sở” đăng trên Phụ nữ Online ngày 4/9/2012Ảnh 9 để thấy được “hiệu quả làm việc” vào ngày 30/8/2012 của công an (ở huyện Đông Anh, Thủ đô Hà Nội) trên thi thể của ông Nguyễn Mậu Thuận.

 

 

Ảnh 9: “Hiệu quả làm việc” của công an (Nguồn: Phụ nữ Online)

 

Hãy xem bài “Chiếc dùi cui quật vào đâu?” trên báo Lao động ngày 28/3/2014, bình luận về “những lời khai rất khủng khiếp” của “5 công an dùng nhục hình đánh chết… nạn nhân Ngô Thanh Kiều” (vào ngày 13/5/2012 tại Thành phố Tuy Hòa).

Ngày 13/2/2014, lại “Thêm một người chết sau khi làm việc với công an”, như Tuổi trẻ Online đã tường thuật (xem Ảnh 10). Đó là chưa kể những vụ bị coi là “tự tử” ngay khi đang “làm việc” với công an, ví dụ như Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở Bình Định) “treo cổ tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh” vào tối 11/3/2014; Bùi Thị Hương (42 tuổi, ở Bình Phước) “chết trong tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính” vào ngày 17/3/2014…

Đó chỉ là mấy ví dụ đại diện cho bao cái chết oan uổng, được tường thuật công khai trên báo chí chính thống. Vậy mà họ vẫn ngang nhiên khẳng định trong Điều 19 Hiến pháp 2013 rằng “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.” Quả là bất chấp thực tế đến tột cùng, tới mức khó có thể tìm được một từ thích hợp mà vẫn còn lịch sự để đánh giá. Chẳng nhẽ họ dự định sẽ ban hành luật để hợp pháp hóa, biến tất cả những oan hồn thành diện “bị tước đoạt tính mạng phù hợp với luật hay sao?

 

 

Ảnh 10: Thân thể tử thi sau khi “làm việc” với công an (Nguồn: Tuổi trẻ Online)

7.7.

 

“Bất chấp” là tính cách khá phổ biến trong giới cầm quyền. Song không phải mọi thể hiện “bất chấp” trong Hiến pháp đều bắt nguồn từ tính cách ấy.

 

Hãy xem lại mệnh đề Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” trong Điều 19 Hiến pháp 2013. Hai chữ “trái luật” cho thấy câu này thực ra là một ràng buộc, đòi hỏi đối với phía Nhà nước, bởi chẳng có luật nào cho phép dân thường “tước đoạt tính mạng” của người khác. Như vậy, theo thông lệ lập hiến có thể viết rằng: “Không ai bị Nhà nước tước đoạt tính mạng trái luật” – tức là viết như một cam kết của Nhà nước. Song trên thực tế thì Nhà nước không thực hiện được cam kết này. Nên phải viết một cách chính xác là: Nhà nước không được tước đoạt tính mạng của bất cứ ai một cách trái luật” – tức là viết như một đòi hỏi hiến định đối với Nhà nước. Nhưng có lẽ họ cho rằng viết như vậy sẽ ảnh hưởng đến sĩ diện của Nhà nước, hoặc đã rắp tâm sẽ lẩn tránh trách nhiệm, nên dở chiêu “mập mờ”, xóa tên của chủ thể “tước đoạt tính mạng”. Bị mất đối tượng đích thực là “Nhà nước”, nội dung hiến định trở nên lệch lạc, không còn là cam kết hay đòi hỏi, mà trở thành mệnh đề khẳng định một trạng thái hoàn toàn trái với thực tế. Chứng “mập mờ” gây ra chứng “bất chấp” là vậy.

Chứng “mập mờ” là một căn bệnh cố hữu trong Hiến pháp Việt Nam. Cũng vì sĩ diện hay lẩn tránh trách nhiệm, nên cố tình bỏ đi một số chữ phải (hay tương tự), khiến các đòi hỏi, ràng buộc hiến định trở thành những mệnh đề “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, như đã phân tích trong bài “Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp”. Chỉ cần thành tâm thêm chữ phải vào một số nơi cần thiết, thì khắc phục được ngay trạng thái “khẳng định bất chấp thực tế” của một số điều khoản liên quan. Ví dụ:

“Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”

“Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

“Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”

“Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”

“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử phải được bảo đảm.”

Tuy nhiên, thêm chữ “phải” vẫn chưa đủ để chứng “bất chấp” biến khỏi vòng Hiến pháp. Nó chỉ thay vai, đổi chỗ mà thôi: Nếu không thể hiện trong Hiến pháp một số nội dung dưới dạng bất chấp thực tế, thì trên thực tế lại bất chấp Hiến pháp. Có lẽ, do không thể tránh khỏi “bất chấp”, và “bất chấp” khi lập hiến an toàn hơn “bất chấp” khi thi hành Hiến pháp, nên “mập mờ” trong Hiến pháp vẫn hơn. Ấy là nguyên do khiến chứng “bất chấp” cũng có thể gây ra chứng “mập mờ”.

Nếu bất chấp cái Hiến pháp do thế hệ tiền nhiệm để lại thì có thể thông cảm phần nào, vì không phải mọi quy định trong cái Hiến pháp đã trở nên lỗi thời đều phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng nếu đem Hiến pháp ra sửa đổi mà vẫn duy trì hay bổ sung thêm những nội dung mà thế lực đương quyền đã, đang và sẽ không muốn, hay không thể thực hiện, thì đó là hành vi hiến định bất chấp thực tế. Chủ động hiến định bất chấp thực tế và sau đấy lại chủ động bất chấp Hiến pháp – đó là thái độ “bất chấp” không thể chấp nhận được!

  1. Chứng “Vu vơ”

Để mô tả căn bệnh này, ta chỉ cần dựa vào danh từ “chủ nghĩa xã hội” và tính từ “xã hội chủ nghĩa” trong Hiến pháp Việt Nam. Ban đầu, chúng không hề tồn tại trong Hiến pháp 1946. Sang Hiến pháp 1959, mỗi từ này xuất hiện đúng 6 lần. Nhiều nhất là trong Hiến pháp 1980, với 23 lần chủ nghĩa xã hội” và 86 lần “xã hội chủ nghĩa”. Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bị sụp đổ, Hiến pháp 1992 chỉ còn chứa 3 từ chủ nghĩa xã hội” và 43 từ “xã hội chủ nghĩa”. Sự biến thiên này cũng tương ứng với quá trình thăng trầm của một giấc mơ…

8.1.

Hiến pháp 2013 giữ nguyên 3 danh từ chủ nghĩa xã hội”, tại những vị trí tương tự như ở Hiến pháp 1992, trong đó có đoạn thứ ba của Lời nói đầu:

“Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Thử hỏi, “Cương lĩnh…” của ai? Của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hay của Đảng Lao động Triều Tiên? Tại sao lại dấu tên chủ nhân của “Cương lĩnh…”? Phải chăng các nhà lập hiến hiểu ra, rằng không đảng nào có quyền lạm dụng Hiến pháp để áp đặt cả Dân tộc? Hay tránh nhắc tên, để khỏi gây phản cảm?

Nếu “Cương lĩnh…” của ĐCSVN, thì “Cương lĩnh…” nào? Là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN thông qua ngày 27/6/1991? Hay là cái “Cương lĩnh…” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉnh sửa, và hóa trang bằng mỹ từ Bổ sung, phát triển năm 2011″? Phải chăng, không thể nói rõ bản “Cương lĩnh…” nào, vì biết trước sẽ còn phải tẩy xóa, chỉnh sửa nhiều lần nữa? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả Dân tộc phải răm rắp làm những điều mà bản thân họ cũng không dám tin là đúng?

Hiến định “Cương lĩnh…” một cách vu vơ như vậy phỏng có ích gì?

8.2.

Hiến pháp 2013 chứa 39 tính từ “xã hội chủ nghĩa”, trong đó 33 lần thuộc về tên nước “Cộng hòa từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Gán nó cho tên nước có hợp lý hay không? Điều này đã được đề cập trong bài “Quốc hiệu nào hội tụ lòng dân?” nên không cần nhắc lại ở đây nữa. 6 lần xuất hiện còn lại có thể chia thành hai nhóm.

Nhóm thứ nhất bao gồm:

“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.” (Điều 2)

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” (Điều 51)

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là gì? Trong “Nhà nước pháp quyền”, không cá nhân và tổ chức nào có quyền đứng trên hay đứng ngoài Hiến pháp và luật, mọi quyền lực nhà nước đều bị ràng buộc và giới hạn bởi Hiến pháp và luật. Còn ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực của ĐCSVN mới là cao nhất, không bị khống chế bởi bất cứ điều khoản cụ thể nào trong Hiến pháp và luật. Hiến pháp chỉ “thể chế hóa Cương lĩnh…” của ĐCSVN, và luật phải tuân theo Hiến pháp, nên về thực chất lãnh đạo ĐCSVN mới đóng vai trò quyết định và còn đứng cao hơn Hiến pháp và luật. Chẳng nhẽ đó là đặc trưng của “pháp quyền xã hội chủ nghĩa” hay sao?

“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì? “Xã hội chủ nghĩa” mù mờ bao nhiêu, thì “định hướng xã hội chủ nghĩa” luẩn quẩn bấy nhiêu. Càng tung hô “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, thì càng tỏ ra chẳng có định hướng nào cả.

Phải chăng hai khái niệm trên cũng tương tự như phạm trù “dân chủ xã hội chủ nghĩa”? Thường thì chế độ “phi dân chủ” hay được khẳng định là “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tức là:

“Dân chủ xã hội chủ nghĩa = Phi dân chủ”.

Nếu như vậy thì cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” được gắn sau từ “dân chủ” có ý nghĩa như chữ “phi” được gắn trước từ “dân chủ” (để phủ định). Áp dụng quy tắc ghép từ này, ta thu được:

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa = “Nhà nước phi pháp quyền”,

“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa = “Kinh tế thị trường phi định hướng”.

Bạn thấy kết quả suy luận này có phù hợp với thực tế hay không?

Nhóm thứ hai bao gồm:

“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.” (Điều 64)

“Lực lượng vũ trang nhân dân… có nhiệm vụ… bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 65)

“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 102)

“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Điều 107)

Nếu áp dụng quy tắc ghép từ ở trên, thì “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” có thể phiên dịch thành “Tổ quốc phi Việt Nam”. Nghe có vẻ bất thường, nhưng nếu liên hệ với lối tư duy “truyền thống”, coi lý tưởng và quyền lợi của giai cấp vô sản quốc tế cao hơn lợi ích của Tổ quốc Việt Nam, thì kết quả phiên dịch có phù hợp hay không?

Hãy bỏ qua ý phụ vừa rồi, để tập trung vào ý chính, mà chúng ta muốn trao đổi về nhóm thứ hai. Đó là: Có hay không cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”“chế độ xã hội chủ nghĩa”?

Khi xuất hiện trong cụm từ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì từ “xã hội chủ nghĩa” đóng vai trò tên gọi, được hiến định trong Hiến pháp. Nó chỉ để trang trí, không nhất thiết phải tương thích với thực trạng. Cũng tương tự như việc đặt tên “Cao” cho người lùn, tên “Mạnh” cho người yếu, tên “Tài” cho người thiểu năng… Dù không phù hợp với trạng thái, tính cách, thì người ấy vẫn tồn tại với tên gọi đó, không ai có thể phủ định.

Nhưng khi xuất hiện trong hai cụm từ “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”“chế độ xã hội chủ nghĩa” thì “xã hội chủ nghĩa” không hề đóng vai trò tên gọi (được hiến định hay luật định), mà chỉ đơn thuần là một tính từ, phản ánh tính chất, đặc điểm thực tại của “Tổ quốc”“chế độ”.

Vậy “Tổ quốc”“chế độ” này có phải là “xã hội chủ nghĩa” hay không? Nếu trước năm 2013 mà trả lời phủ định, thì có lẽ phải hứng chịu những đợt sóng thịnh nộ từ phía các “chiến binh cầm bút” của ĐCSVN. Nhưng may thay, trong buổi thảo luận của Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vào sáng 23/10/2013, Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn khẳng định cái điều mà bao người vẫn nghĩ, nhưng thường tránh nói ra:

“Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.

Xin cảm ơn! Vậy là cả ngài cũng đã thừa nhận, rằng hiện tại và nhiều chục năm nữa, không thể coi “Tổ quốc” và “chế độ” này là “xã hội chủ nghĩa”. Nói cách khác, thực tế không tồn tại cái gọi là “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và “chế độ xã hội chủ nghĩa” trên đất nước Việt Nam!

Hóa ra, Hiến pháp 2013 quy định

“Bảo vệ Tổ quốc không tồn tại là sự nghiệp của toàn dân”

“Lực lượng vũ trang nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chế độ không tồn tại.”

Tại sao Quốc hội lại hiến định loại nhiệm vụ “vu vơ” đến như vậy?

*

*     *

Vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn, song bài viết đã dài, và bằng ấy nội dung cũng đã đủ để cùng với hai bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?”“Hiến pháp vi hiến” khắc họa chất lượng tầm bản nháp của cái văn bản mà 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhất trí tán thành chọn làm Hiến pháp.

Tại sao lại bất chấp mọi khuyên can, thông qua bằng được một bản dự thảo Hiến pháp với chất lượng như thế?

Hiến pháp ấy có xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến của Dân tộc, với trí tuệ của hơn 90 triệu khối óc, với tầm tư duy của thời đại hay không?

Nhân dân ta có đáng phải chấp nhận một bản Hiến pháp như vậy hay không?

Câu hỏi chất chồng câu hỏi, băn khoăn quấn rối băn khoăn… Song buồn thay, những người đáng phải giải đáp lại cứ làm thinh.

* * * * * * * * * *

Phụ lục I

Điều 15 Hiến pháp 2013 là biến tướng của Điều 16 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013), viết rằng:

“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.”

Như đã phân tích trong bài Teo dần quyền con người trong Hiến pháp, đó là thủ đoạn lợi dụng… từ “lợi dụng” để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi, nhằm hạn chế trên lý thuyết và phủ định trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Để tránh bị phê phán như vậy, họ đã bỏ bớt từ “lợi dụng” trong mệnh đề

 

Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm…”

và thay nó bằng

Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm…”

Phụ lục II

Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin, Hiến pháp Đức quy định:

Điều 5

(1) Mọi người có quyền tự do phát biểu và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và tự do tìm hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí và tự do thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.

(2) Những quyền này bị hạn chế bởi các quy định trong các luật phổ quát, bởi các quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân.

(3) Nghệ thuật và khoa học, nghiên cứu và giáo dục là tự do. Quyền tự do giáo dục không miễn trừ trách nhiệm trung thành với Hiến pháp.”

Về quyền tự do lập hội, Hiến pháp Đức quy định:

Điều 9

(1) Mọi người Đức có quyền lập hiệp hội và đoàn thể.

(2) Cấm các hội đoàn mà mục đích và hoạt động của chúng trái với Bộ luật hình sự, hoặc chống lại trật tự hiến định hay sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.

(3) Quyền thành lập hội đoàn nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế được bảo đảm cho mỗi người và mọi ngành nghề. Những thỏa thuận nhằm hạn chế hay cản trở quyền này đều không có hiệu lực, các biện pháp nhằm vào chúng đều là phi pháp. Các biện pháp theo Điều 12a, Điều 35 Khoản 2 và 3, Điều 87a Khoản 4 và Điều 91 không được chống lại các hoạt động đình công nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế của các hội đoàn được đề cập tại Khoản 1.”

Phụ lục III

“Convention on the Rights of the Child”, thường được dịch ra tiếng Việt là “Công ước về Quyền trẻ em”, chỉ có điều sau đây là có vẻ gần nhất với nội dung “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”:

Article 12

  1. States Parties shall assure to the child who is capable of forming his or her own views the right to express those views freely in all matters affecting the child, the views of the child being given due weight in accordance with the age and maturity of the child.
  2. For this purpose, the child shall in particular be provided the opportunity to be heard in any judicial and administrative proceedings affecting the child, either directly, or through a representative or an appropriate body, in a manner consistent with the procedural rules of national law.”

Trong văn bản tiếng Việt tại website của tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), điều này được dịch như sau:

Điều 12

  1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em.
  2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia.

Có lẽ ý “trẻ em được… phát biểu… quan điểm… về tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em” trong đoạn dịch trên đã hóa thân thành cụm “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” trong Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013. Trước khi lý giải nguyên do hình thành, xin lưu ý ba khía cạnh mà người đọc có thể hiểu lầm qua bản dịch tiếng Việt của UNICEF.

Thứ nhất, từ “trẻ em” bóng bẩy có thể khiến người đọc hiểu lầm rằng nó dành cho cả “giới trẻ em”, giống như từ “thanh niên” dành cho cả “giới thanh niên” và từ “người cao tuổi” dành cho cả “cộng đồng những người cao tuổi”. Thực ra, “the child” (số ít) chỉ là dành riêng cho cá nhân từng “đứa trẻ” cụ thể.

Thứ hai, người đọc có thể hiểu lầm, rằng Điều 12 đòi hỏi “các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em” hai thứ: Một là “có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình”; hai là “được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em”. Vì hiểu như thế, nên trong văn bản tiếng Việt tại website của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con người và Quyền công dân (thuộc Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh), người ta đã dùng thêm dấu phẩy để phân tách hai thứ đó:

“Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em…”

Nhưng không phải như vậy! Điều 12 chỉ đòi hỏi “các quốc gia thành viên phải bảo đảm” một thứ thôi, đó là “cho trẻ em… được quyền tự do phát biểu những quan điểm…”, và “quyền tự do phát biểu” đó chỉ cần được bảo đảm cho loại “trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình” mà thôi.

Thứ ba, cụm từ “mọi vấn đề tác động đến trẻ em” dễ khiến người đọc hiểu lầm là “mọi vấn đề tác động đến” cả giới “trẻ em” nói chung, trong khi “all matters affecting the child” chỉ có nghĩa là “tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến đứa trẻ”, tức là ” ảnh hưởng đến” chính bản thân cá nhân “đứa trẻ” (đang được đề cập).

Thực ra, Điều 12 của “Công ước về quyền trẻ em” chỉ quy định về trách nhiệm phải quan tâm đến nguyện vọng của đứa trẻ khi quyết định những chuyện liên quan đến bản thân nó, chứ không phải là quan điểm của trẻ em về những vấn đề chung, liên quan đến cộng đồng trẻ em. Để tránh hiểu lầm, nên dịch Điều 12 của “Convention on the Rights of the Child” một cách “trần trụi” như sau:

“1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho những đứa trẻ nào có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng được quyền tự do phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân, và ý kiến của đứa trẻ phải được coi trọng thỏa đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của nó.

  1. Đặc biệt, vì mục đích đó, đứa trẻ phải được tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến , trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia.

Sở dĩ ta dành thời gian để bàn kỹ về đoạn dịch trên, là để tìm hiểu cái lô-gíc hình thành của một loại “chân lý” sai lạc lưu truyền ở Việt Nam. Chúng vốn xuất hiện trong văn bản ngoại ngữ nào đó, khi du nhập vào Việt Nam, được người dịch chọn những từ hoa mỹ để chuyển ngữ một cách “hào phóng”, thay cho cách thể hiện chính xác nhưng bị coi là thiếu văn vẻ. Ví dụ, có thể dịch “the child” thành “đứa trẻ”, như vậy vẫn giữ nguyên được trạng thái số ít. Nhưng có lẽ người dịch e rằng như vậy hơi thô thiển, nên đã dịch nó một cách văn vẻ thành “trẻ em”. Hậu quả là: Người đọc dễ hiểu lầm sang số nhiều, không chỉ là một “đứa trẻ” cụ thể, mà có thể là nhiều “đứa trẻ” chung chung, thậm chí là cả cộng đồng các “đứa trẻ”, tức là cả giới “trẻ em”.

Tương tự như vậy, nếu dịch “all matters” thành “mọi chuyện” hay “mọi thứ” thì có vẻ mộc mạc quá, nên chọn cách chuyển ngữ là “các vấn đề”. Khi đã gọi là “các vấn đề”, chứ không còn là “các chuyện nhỏ”, nếu viết rằng “phát biểu quan điểm về” chúng thì chưa đủ phong độ chính trị, nên chọn cụm từ “tham gia vào”. Với tập quán tư duy văn vẻ theo định hướng chính trị như vậy, mệnh đề

“the child… the right to express those views in all matters affecting the child”

không được dịch thành

“đứa trẻ… được quyền phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân.”

Mà nó được dịch thành

“Trẻ em… được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.”

Phải chăng đó là cách tư duy đã đẻ ra cái cao kiến được hiến định tại Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013?

Phụ lục IV

Ngoài những trường hợp đã được đề cập trong hai phần 67, các tác giả của Hiến pháp 2013 còn “lạm phát” ra nhiều thứ “bảo đảm” khác.

Có những thứ không hề được “bảo đảm” trên thực tế. Chẳng hạn:

“Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.” (Khoản 1 Điều 21)

“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.” (Khoản 7 Điều 103)

“Chính quyền địa phương… bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương…” (Khoản 1 Điều 112)

Có những thứ “bảo đảm” quá chung chung, không thể định lượng, hay xác định trạng thái, để xem đã “bảo đảm” hay chưa. Ví dụ:

Nhà nước… bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ…” (Khoản 2 Điều 62)

“Nhà nước… bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân…; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức…” (Điều 68)

“Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ… hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 5 Điều 74)

“Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.” (Khoản 3 Điều 82)

Có những thứ “bảo đảm” mơ hồ:

“Ngân sách nhà nước… bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia.” (Khoản 2 Điều 55)

Mọi chi tiêu của quốc gia đều được tính vào ngân sách nhà nước, vậy chẳng nhẽ “ngân sách nhà nước… bảo đảm” những thứ được tính vào ngân sách, hay sao? Còn nếu quan niệm bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia”thỏa mãn nhu cầu chi của quốc gia”, thì mức độ “đại ngôn” còn tệ hại hơn nữa.

“Tòa án nhân dân tối cao… bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.” (Khoản 3 Điều 104)

Áp dụng thống nhất pháp luật” có nghĩa là gì? Vì tòa án áp dụng sai pháp luật là chuyện không hiếm, nên “Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật” một cách sai trái hay sao?

Có những thứ “bảo đảm” không kèm theo trách nhiệm, như:

“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ… góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.” (Khoản 3 Điều 107)

Nghĩa là chỉ cần “góp phần bảo đảm” thôi, còn có “bảo đảm” được hay không thì còn phụ thuộc vào các đối tác và các yếu tố khác. Hay:

“Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.” (Khoản 1 Điều 26)

“Quốc hội có những nhiệm vụ… Quyết định… các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.” (Khoản 13 Điều 70)

Có nhiệm vụ quyết định các biện pháp, chính sách nhằm “bảo đảm…” không có nghĩa là phải “bảo đảm…”. Trong chế độ mà đường lối luôn được coi là đúng, mọi sai lầm đều thuộc khâu thực hiện, thì bộ máy hoạch định chính sách chẳng phải chịu trách nhiệm nào cả.

Có những thứ “bảo đảm” vô thưởng vô phạt, chẳng kéo theo hệ quả cụ thể nào cả:

“Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, … bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.” (Điều 52)

Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ… bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia. (Khoản 2 Điều 98)

Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.” (Khoản 6 Điều 103)

Và có cả thứ “bảo đảm” không phải… “bảo đảm”, mà là được “bảo đảm”:

Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.” (Khoản 3 Điều 112)

Tức là “chính quyền địa phương” không phải “bảo đảm” điều gì, mà ngược lại, chỉ cần “thực hiện một số nhiệm vụ… với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”.

Đặc biệt, Khoản 1 Điều 14 quy định rằng:

“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân… được… bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”

Nếu chỉ đọc qua, thì dễ tưởng rằng nội dung này trùng lặp với cái được “bảo đảm”Điều 3 Hiến pháp 2013. Song đây không phải là cam kết “bảo đảm”, mà là một thủ thuật để hạn chế quyền con người, quyền công dân, như đã phân tích trong bài “Hiến pháp vi hiến”. Bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật không phải là “bảo đảm” theo nghĩa thông thường, như mọi người vẫn hiểu, mà có nghĩa là chỉ “bảo đảm” ở mức độ cụ thể theo quy định trong Hiến pháp và pháp luật mà thôi.

Ngày 10/9/2014

Bản gốc được lưu trữ tại trang

http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=differentwritings

(với định dạng HTMPDF)

Tuyển CTV dịch thuật

Gia Sư Văn Thông cần tuyển cộng tác viên Dịch thuật

Giới thiệu:

Gia Sư Văn Thông là Câu lạc bộ tập hợp các sinh viên trường Đại học Bách khoa Tp.HCM có cùng tâm huyết và hoài bão khơi dậy và phát triển khả năng TỰ HỌC cho mỗi Học sinh phổ thông, phát huy thế mạnh của mình để tạo thu nhập trang trải cuộc sống sinh viên.

Mô tả công việc:

– Dịch tài liệu tiếng việt sang tiếng anh chuyên ngành kinh tế quản trị kinh doanh và ngược lại

– Đảm bảo thời gian đúng kế hoạch đặt ra

Kỹ năng yêu cầu:

– Đã tốt nghiệp/đang theo học chương trình đại học khối ngành kinh tế quản trị kinh doanh; hoặc đã/đang làm việc tại các vị trí tương ứng với chuyên ngành muốn dịch thuật.

– Có khả năng dịch tối thiểu 20 trang/tuần.

– Thành thạo sử dụng các phần mềm văn phòng word, excel

– Thái độ làm việc nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình, trung thực; có ý chí cầu tiến, ham học hỏi.

– Ưu tiên các bạn sinh viên khối ngành kinh tế quản trị kinh doanh, toán thống kê

Phúc lợi:

– Lương thoả thuận

– Được đào tạo kiến thức về chuyên môn và kỹ năng cần thiết để hoàn thành công việc

– Thời gian làm việc tự do, tại nhà hoặc văn phòng CLB Gia Sư Văn Thông

Thông tin liên hệ:

** Ứng viên quan tâm vui lòng nộp hồ sơ tại văn phòng Câu lạc bộ hoặc qua email theo thông tin liên hệ bên dưới hoặc nộp hồ sơ online tại đây

Liên hệ: Mr Thông

Điện thoại: 0937.503.268

Email: info@giasuvanthong.com

Giới thiệu phần mềm SPSS

Năm 1968 tại Đại học Stanford nhà nghiên cứu xã hội học Norman H. Nie và hai nghiên cứu sinh tiến sĩ C. Hadlai (Tex) Hull, Dale H. Ben phát triển một hệ thống phần mềm dựa trên ý tưởng của việc sử dụng số liệu thống kê để chuyển dữ liệu thô thành thông tin cần thiết cho việc ra quyết định dành cho nhà quản lý. Hệ thống phần mềm này được gọi là phần mềm SPSS viết tắc của Statistical Package for the Social Sciences

Nie, Hull và Bent phát triển phần mềm SPSS vì họ cần phải nhanh chóng phân tích một khối lượng dữ liệu khoa học xã hội thu thập được thông qua các phương pháp khác nhau trong các nghiên cứu của mình. Như vậy dự án phần mềm SPSS được thực hiện khi đó Nie đóng vai trò trường nhóm đưa ra mục tiêu và thiết lập các yêu cầu phân tích, còn Bent có chuyên môn phân tích và thiết kế cấu trúc hệ thống tập tin trong SPSS và Hull đã viết các chương trình máy tính. Công việc ban đầu của dự án phần mềm SPSS đã được thực hiện tại Đại học Stanford với ý định phần mềm này sẽ chỉ được sử dụng trong các trường đại học. Trong những năm 1970 với các tiện ích trong phân tích thống kê nhu cầu sử dụng phần mềm SPSS được mở rộng, và khi đó phần mềm SPSS được xem như là “cuốn sách có ảnh hưởng nhất ngành xã hội học”. Do nhu cầu và phát triển phổ biến của nó, Công ty SPSS Inc được thành lập vào năm 1975 nhằm thương mại hoá phần mềm này. Giữa những năm 1980 SPSS chạy trên những máy tính lớn.

Với những tiến bộ của máy tính cá nhân vào đầu năm 1980, SPSS/PC được giới thiệu vào năm 1984 nó như là các phần mềm thống kê đầu tiên cho máy tính mà làm việc trên nền tảng MS-DOS. Tương tự như vậy, SPSS là sản phẩm thống kê đầu tiên cho hệ điều hành Microsoft Windows (phiên bản 3.1) đưa ra vào năm 1992.

Kể từ đó SPSS đã được cập nhật thường xuyên để phù hợp và khai thác các tính năng tiên tiến của hệ điều hành mới, và để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng giữa người sử dụng. Tháng 07 năm 2009 phần mềm SPSS do SPSS Inc sở hữu được IBM mua lại, do vậy các phiên bản sau này của SPSS có tên là IBM SPSS Statistics

Người dùng phần mềm SPSS

Ban đầu, hầu hết người dùng của phần mềm SPSS là các nhà nghiên cứu, những người làm việc tại các trường đại học lớn với các máy tính máy tính lớn. Vì giá rất cao, và việc làm của hệ thống an ninh cảm ứng và giao diện người dùng khó khăn của nó, không có nhiều người hay tổ chức sử dụng SPSS. Phần mềm này không phổ biến trong các nhà nghiên cứu cho đến khi phiên bản SPSS trên máy tính cá nhân được đưa vào sử dụng rộng rãi.

Sau khi phiên bản Windows đã được đưa ra thị trường, người dùng phần mềm SPSS tăng lên nhanh chóng bởi vì tính hữu ích của nó trong việc lưu trữ và xử lý dữ liệu. Các phiên bản mới của phần mềm SPSS sau này có thể xử lý nhiều bộ dữ liệu với một số lượng gần như không giới hạn cỡ mẫu và số biến. Nó cho phép đọc dữ liệu từ nhiều định dạng như Portable(*.por), Excel(*.xls, *.xlsx, *.xlsm) Lotus(*.w) Sylk(*.slk) dBase(*.dbf) SAS(*.sas7bdat, *.sd7, *.sd2, *.ssd01, *.ssd04, *.xpt) Sata(*.dat) Text(*.txt, *.dat, *.csv), và xuất các kết quả phân tích sang Microsoft Excel và các định dạng văn bản khác nhau.

SPSS là một chương trình được sử dụng rộng rãi trong ngành khoa học xã hội, quản trị kinh doanh. Nó cũng được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu thị trường, các nhà nghiên cứu y tế, công ty khảo sát, chính phủ, các nhà nghiên cứu giáo dục, các tổ chức tiếp thị vv. Các tính năng chính của phần mềm SPSS như sau:

Nhập dữ liệu xuất kết quả: Ngoài việc nhập dữ liệu và xuất kết quả trực tiếp trên phần mềm, SPSS cho phép nhập dữ liệu và xuất kết quả phân tích sang các định dạng tập tin khác, chẳng hạn như Portable, Excel, dBase, SQL, TXT, Lotus, SAS, Sylk, truy cập và cho phép lấy mẫu, phân loại, xếp hạng, thiết lập, sáp nhập, và tập hợp dữ liệu.

Thống kê và tổng kết cơ bản: Tần số, tần suất, thống kê mô tả, lập bảng thống kê, thống kê tỷ lệ, vẽ đồ thị.

Kiểm tra ý nghĩa: Mean, T-Test, ANOVA, Tương quan, các kiểm định phi tham số.

Thống kê suy diễn: Hồi quy tuyến tính và phi tuyến tính, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích phân biệt số.

Ngô Thông

Hướng dẫn sử dụng SPSS – Mã hoá lại biến

Hướng dẫn sử dụng SPSS – Cách hiên thị giá trị trong đồ thị SPSS

Hướng dẫn sử dụng SPSS – Mã hoá lại biến Recoding Varibles

Mã hóa lại biến – Recoding variables là công cụ hữu ích trong SPSS để bạn biên tập dữ liệu, khi bạn muốn thay đổi mã số cho các lựa chọn của một biến hoặc khi bạn có quá nhiều lựa chọn của một biến và cần giảm số biểu hiện không cần thiết trong phân tích. Mã hóa lại biến cho phép bạn thay đổi các mã số hiện hữu gán cho các giá trị biến. Không có chuyện đúng hay sai trong việc mã hóa lại các biến. Tuy nhiên, việc mã hoá lại các biến thường được thực hiện bởi hai lý do:

1. Để thuận tiện cho việc tính toán thống kê. Ví dụ chúng ta có biến hỏi về thu nhập của bạn trong khoản nào? câu trả lời có 4 lựa chọn: 1. Dưới 5 triệu; 2. Từ 5 đến dưới 10 triệu; 3. Từ 10 đến dưới 15 triệu; 4. Từ 15 triệu trở lên. Một yêu cầu phân tích với đối tượng trả lời có thu nhập 10 triệu trở lên, khi đó bạn phải mã hoá lại biến thu nhập bằng cách gom chung biểu hiện thứ 3 và thu nhập từ 10 đến dưới 15 triệu và biểu hiện thứ 4 là từ 15 triệu trở lên thành nhóm chung là 5. Từ 10 triệu trở lên.

2. Để kết hợp lại các lựa chọn của một biến khi số lượng các câu trả lời trong một biến quá nhỏ để phân tích thống kê. Ví dụ bạn đang phân tích độ tuổi người trả lời, thay vì độ tuổi người trả lời dao động từ 20 đến 60 tuổi như vậy chúng ta có 40 lựa chọn, bạn có thể mã hoá lại biến này thành 4 nhóm tuổi như (20 – 25); (26 – 35); (36 – 45); (46 – 60). Việc mã hoá lại biến tuổi này làm cho biến tuổi từ biến liên tục định lượng thành một biến định tính nó sẽ hữu ích trong một số trường hợp phân tích nhất định.

Để thực sự thực hiện các recode, bấm vào “Transform” menu ở trên cùng của cửa sổ soạn thảo dữ liệu, chọn “Recode into Different Variables”. Hầu hết việc mã hoá lại biến đều chọn Recode into Different Variables chứ không chọn “Recode into Same Variable” vì khi chọn Recode into Same Variable thị biến mới sinh ra đè lên biến củ làm cho các giá trị gốc mất đi Recoding Xuất hiện cửa sổ “Recode into Different Variables”, Bạn có thể chọn các biến từ danh sách bên trái và chèn chúng vào các hộp “Numeric Variable →  Output Variable“. Để làm điều này bằng cách bạn chọn biến và sau đó nhấp vào nút mũi tên: Recoding varble Bây giờ gõ nhãn tên biến mới trong  hộp“Output Variable” “Name” và “Label”. Tuỳ vào mục đích nhà nghiên cứu đặt các tên biến khác nhau, một cách phổ biến dễ nhớ là thêm “x” hoặc “z” vào cuối của biến ban đầu (ví dụ, Agex). Một khi bạn đã thêm tên và nhãn hiệu, nhấp vào Change. Phần cuối cùng này rất quan trọng vì bạn không thể mã hóa lại biến cho đến khi bạn chọn “Change“.

Mã hoá biếnĐể nhập các giá trị cũ và mới mà bạn dự định mã lại như ví dụ ở trên, nhấn “Old and New Values” Bạn sẽ nhận được cửa sổ sau:

Recoding 4

Sử dụng danh sách thủ công trước đây chúng ta thực hiện, chuyển đổi các giá trị cũ vào giá trị mới. Giá trị cũ được nhập vào từ hộp Old Values, giá trị mới được nhập vào hộp New Values. Nhấp vào “Add” sau khi bạn nhập các giá trị cũ và mới cho mỗi biến để bổ sung vào danh sách “Old → New”. Như bạn có thể thấy các biến từ 20 đến 25 họ đã được mã hóa lại là “1” Giá trị 26 đến 35 đã được tái mã hóa như “2” việc này cũng có thể được thực hiện bằng cách chọn nút “Range” bên phải để nhập khoản giá trị.

Khi bạn hoàn tất, nhấp “continue” điều này sẽ đưa bạn quay lại cửa sổ mã hoá lại biến, nơi bạn có thể bấm “OK” để hoàn thành thao tác ở cửa sổ Recode into Different Variables

Bạn sẽ chưa hoàn toàn kết thúc việc mã hoá lại biến. Bạn nên quay trở lại cửa sổ Data Editor, Variable View.  Ở dưới cùng của danh sách biến của bạn, bạn sẽ tìm thấy biến mới sinh ra được tái mã hóa của bạn. Để thuận tiện việc theo dõi bạn nên kéo biến mới được mã hoá đến gần với biến gốc. Bạn cũng nên chỉnh sửa các Nhãn Giá trị để phản ánh các giá trị mới được tái mã hóa tránh trường hợp khi phân tích xuất kết quả chúng ta quên những giá trị của biến được mã hoá:

Recoding 5

Nhấn “OK” và bạn đã hoàn tất.

Biên soạn: Ngô Thông

Hướng dẫn sử dụng SPSS 20.0

Cách hiển thị giá trị trên biểu đồ khi chạy biểu đồ tần số, tần suất trong SPSS

 

Cách hiển thị giá trị trên đồ thị trong SPSS

Cách hiển thị giá trị trên biểu đồ khi chạy biểu đồ tần số, tần suất trong SPSS:

Analyze/Descriptive Statistics/Frequencies xuất hiện cửa sổ Frequencies

Frequencies

Bạn chọn biến cần chạy cho vào ô Variable, sau đó chọn statistics để yêu cầu xuất các thông số thống kê liên quan (Phương sai, độ lệch chuẩn, min, max…).

Tiếp đên chọn Charts để vẽ đồ thị, trong cửa sổ charts này bạn chọn loại biểu đồ ở phần Chart Type và giá trị cho biểu đồ là tần số hay tần suất ở phần Chart Values

Okie để SPSS xuất các yêu cầu vừa thực hiện của bạn,

 

SPSSTuy nhiên kết quả vẫn chưa như ý của bạn nghĩa là chưa có giá trị trên chart, bây giờ bạn làm theo hướng dẫn sau:

Bạn click double chuột trái vào chart khi đó xuất hiện cửa sổ Chart Editor.

SPSS

Ở cửa sổ này bạn sẽ thực hiện các thao tác edit biểu đồ của mình như màu sắc, biểu đồ dạng 3D, đưa số liệu hiển thị tlên biểu đồ, chú thích cho biểu đồ… Để đưa số liệu hiển thị trên biểu đồ thì bạn rê chuột vào biểu tượng biểu đồ hình cột (Như vùng khoanh đỏ hình vẽ) ở thanh trình đơn khi đó sẽ có dòng chữ Show data labels và click chọn icon này.

Như vậy biểu đồ của bạn sẽ xuất hiện giá trị, bạn có thể kéo các giá trị này lên đầu hoặc ở giữa cho tương thích với đồ thị

Chúc các bạn thành công

Hướng dẫn sử dụng SPSS 20.0

Tuyển Sinh viên dạy kèm môn Toán, Lý lớp 7

Gia Sư Văn Thông cần tuyển Sinh viên dạy kèm môn Toán Lý lớp 7

Icon_120x90

Thời gian: 1,5h/buổi tối thứ 3, 5, 7 hoặc 2,4,6 gia sư sắp xếp với gia đình

Địa điểm: Chợ bà điểm

Gói dịch vụ: Dịch vụ cao cấp

Mức lương: đây là gói dịch vụ cao cấp nên lương thoả thuận với gia sư

Hoa hồng: 0%

Yêu cầu: Sinh viên bách khoa giỏi khối A, có kinh nghiệm dạy thêm là một lợi thế.

Liên hệ: Gia Sư Văn Thông

Điện thoại: 0937.503.268

Email: info@giasuvanthong.com

Website: http://giasuvanthong.com

Tình trạng: Chưa giao

Tuyển sinh viên dạy kèm môn toán 12

Tuyển Sinh viên dạy kèm môn Toán 12

Gia Sư Văn Thông cần tuyển Sinh viên dạy kèm môn Toán lớp 12

Icon_120x90

Thời gian: 1,5h/buổi tối thứ 3, 5, 7

Địa điểm: đường Quang Trung, Quận Gò Vấp

Mức lương: 1.300.000VNĐ/tháng.

Yêu cầu: Sinh viên bách khoa giỏi khối A, có kinh nghiệm dạy thêm LTĐT là một lợi thế.

Liên hệ: Gia Sư Văn Thông

Điện thoại: 0937.503.268

Email: info@giasuvanthong.com

Website: http://giasuvanthong.com

Tình trạng: Đã giao

Phần mềm Minitab full win 7, XP

MiniTAB là phần mền máy tính giúp người dùng hiểu thêm về thống kê và tiết kiệm thời gian tính toán. Phần mềm này ban đầu được thiết kế để phục vụ việc giảng dạy môn thống kê, sau đó đã được phát hiện thành công cụ phân tích và trình bày dữ liệu rất hữu hiệu.

Với chương trình này bạn có thể giải những bài toán từ đơn giản nhất chỉ yêu cầu các tham số thống kê, tới các bài toán phức tạp hơn như việc xác định ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau đến các tính trạng bằng các phương pháp phân tích hồi qui, phưong sai. Các bạn cũng có thể xây dựng cho mình các thí nghiệm hữu hiệu…. Minaitab cũng cho chúng ta hàng loại cách vẽ đồ thị mang tính phân tích khoa học…

Xin gửi tới bạn đọc hướng dẫn thực hành những nội dung cơ bản của phần mềm Minitab, GiaSuVanThong_HuongDanMinitab

Phiên bản Minitab 16 full windown 7 tải về tại đây

Phiên bản Minitab 15 windown XP – MiniTab v15.1.0.0 English tải về tại đây

Lưu ý các bạn khi tải phần mềm, vì mình up lên google driver nên các bạn vào link trên gửi yêu cầu và mình xác nhận share thì các bạn mới tải được nhé

Những sai lầm phổ biến trong phân tích thống kê Phần 2

Tiếp tục bài trước về những sai sót trong phân tích dữ liệu. Bài này tập trung vào những sai sót về sự chia nhóm tùy tiện, sử dụng sai độ lệch chuẩn và sai số chuẩn.

Sai sót 3: Phân chia biến liên tục thành nhiều nhóm mà không giải thích lí do

Thỉnh thoảng, để đơn giản hóa các phân tích thống kê, nhà nghiên cứu có thể chia các biến liên tục thành nhiều nhóm. Chẳng hạn như body mass index có thể chia thành 4 nhóm: béo phì, quá cân, bình thường, và thiếu cân. Nhưng cũng có nhiều trường hợp nhà nghiên cứu chia nhóm một cách tùy tiện, hoàn toàn không theo một qui ước lâm sàng nào cả, như chia độ tuổi thành nhiều nhóm theo 5 tuổi (0-4, 5-9, 10-14, v.v.), lại có khi chia thành nhóm theo 10 tuổi (0-9, 10-19, 20-29, v.v.). Phân chia một biến liên tục thành một biến không liên tục qua phân nhóm như vừa đề cập là một cách làm … phi khoa học. Như đề cập trên, biến liên tục là biến có giá trị chính xác cao nhất so với các biến định cấp và định danh. Một khi một biến liên tục bị cắt thành nhiều đoạn, thì điều đó cũng có nghĩa là làm giảm độ chính xác của biến số. Vì độ chính xác suy giảm, nên power của phân tích cũng giảm theo. Đã có rất nhiều nghiên cứu lí thuyết và thực hành cho thấy những phân nhóm như thế là phản khoa học, và có khi cho ra những kết quả rất khó diễn giải, nếu không muốn nói là sai.

Sai sót 4: Dùng trung bình và độ lệch chuẩn (SD) để mô tả một biến liên tục không tuân theo luật phân phối chuẩn

Không như các biến định danh và định cấp vốn có thể mô tả bằng tần số (frequency) hoặc tỉ lệ (proportion) cho mỗi nhóm, các biến số liên tục có thể mô tả bằng một biểu đồ phân phối. Đối với các biến tuân theo luật phân phối chuẩn (normal distribution), có hai thông số chính là số trung bình và độ lệch chuẩn. Theo định nghĩa của luật phân phối chuẩn, khoảng 67% các giá trị của nằm trong khoảng ±1 SD của số trung bình; khoảng 95% giá trị nằm trong khoảng ± 2 SD.

Tuy nhiên, nếu một biến không tuân theo luật phân phối chuẩn, thì số trung bình và độ lệch chuẩn sẽ không có ý nghĩa gì đáng kể. Đối với các biến không tuân theo luật phân phối chuẩn, các suy luận về 67% và 95% không còn đúng nữa. Trong trường hợp này, chúng ta nên dùng số trung vị (median) và số interquartile range để mô tả dữ liệu.

Phần lớn số liệu lâm sàng và sinh hóa không tuân theo luật phân phối chuẩn. Do đó, số trung vị và interquartile range nên được sử dụng thường xuyên hơn. Một cách tính nhẩm đáng tin cậy là nếu SD cao hơn phân nửa số trung bình (và số âm là số không khả dĩ về mặt sinh học) thì dữ liệu có lẽ không tuân theo luật phân phối chuẩn.

Sai sót 5: Dùng số trung bình và sai số chuẩn (standard error – SE) như là các chỉ số thống kê mô tả

Số trung bình và độ lệch chuẩn (SD) là những chỉ số thống kê mô tả một mẫu nghiên cứu (study sample) với điều kiện biến số tuân theo luật phân phối chuẩn. Sai số chuẩn (standard error hay SE) là một chỉ số đo lường độ chính xác (precision) của một đặc điểm quần thể (population). Xin nhắc lại, SD áp dụng một mẫu nghiên cứu, SE áp dụng cho đặc điểm của một quần thể. SD phản ảnh độ dao động hay khác biệt giữa các cá nhân trong một mẫu nghiên cứu, còn SE phản ảnh độ dao động về một chỉ số như số trung bình giữa các mẫu tưởng tượng (vâng! tưởng tượng).

SE có thể ước tính từ SD bằng cách lấy SD chia cho căn số bậc hai của số cỡ mẫu. Do đó, SE lúc nào cũng thấp hơn SD. Nhiều nhà nghiên cứu không hiểu ý nghĩa của SE nên dùng nó như là một đo lường thay cho SD, và làm cho biến số có độ dao động thấp hơn so với thực tế. Một số nhà nghiên cứu sai lầm vì không hiểu (tức sai lầm có thể thông cảm), nhưng có những nhà nghiên cứu cao bồi cố tình lừa gạt người đọc bằng cách dùng SE thay cho SD và không nói rõ. Nói chung, nên dùng SD (chứ không phải SE) để mô tả một biến số.

Nguyễn Văn Tuấn

Còn tiếp …

Những sai lầm phổ biến trong phân tích thống kê phần 1

Những sai lầm phổ biến trong phân tích thống kê phần 3

Giải trí đầu năm

Đừng buồn nếu những ngày đầu năm mới của bạn không suôn sẻ, những người dưới đây còn giống “Thánh nhọ” hơn là bạn.:))=))

1. Đầu năm mới ra biển chụp ảnh, sóng ập “vỡ đầu”.
[​IMG]

2. Chơi vật tay thì tự đấm thẳng vào mặt mình.
[​IMG]

3. Này thì “nhún nhảy”.
[​IMG]

4. 3 chàng lính ngự lâm chơi trò đổ người, có vẻ rất thành công cho tới lúc… đổ.
[​IMG]

5. Ước mơ bay đến những vì sao.
[​IMG]

6. Chơi yo-yo cũng phải có nghề không là cũng vỡ mặt.
[​IMG]

7. Thế này mới là “quẩy” này.
[​IMG]

8. Trò này không dành cho những người thừa cân đâu nha.
[​IMG]

9. Một bước trượt chân là “sa cơ lỡ vận”.
[​IMG]

10. Cẩn thận nếu bạn có bạn thân là nghệ sĩ tung hứng.
[​IMG]

11. Và cũng cẩn thận luôn với mấy trò chơi khăm kiểu như thế này.
[​IMG]

12. Xin giới thiệu sản phẩm siêu súng giấy vệ sinh có thể làm bất kỳ ai bực tức.
[​IMG]

13. Màn đu xà của thanh niên yêu thể dục thể thao trong năm mới.
[​IMG]

14. Dành cho những người “tưởng bở” về màn chat show cam phong cách 18+.
[​IMG]

15. Anh tài xế này phải nói là quá “nhọ”.
[​IMG]

16. Tội nghiệp Captain America, đã ăn đạn vào chỗ hiểm xong lại còn bị dọa cho hú hồn.
[​IMG]

17. Bài học rút ra: Đừng bao giờ đứng cạnh người khác khi họ đang nhảy salto.
[​IMG]

Nguồn: Nhặt trên net

CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ: SO SÁNH GIỮA MÔ HÌNH SERVQUAL VÀ GRONROOS

LVTN_CLDVNHDT1.1 Cơ sở hình thành đề tài

Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào ngày 11/01/2007 đã mở ra một trang mới cho ngành ngân hàng Việt Nam, đó là các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay phải làm thế nào để nâng cao tính cạnh tranh và khai thác tối đa các cơ hội từ thị trường mở mang lại. Đứng trước thách thức lớn nhất đó là việc gia tăng áp lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa khi Việt Nam mở của hội nhập và nhu cầu hay thay đổi của khách hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam buộc phải ứng dụng công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng tại thị trường Việt Nam và để ngành ngân hàng ngày càng hội nhập hơn với sự phát triển của ngành ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.

Bằng cách ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã cho ra đời một phương thức cung ứng sản phẩm và dịch vụ mới, đó là phương thức cung ứng sản phẩm và dịch vụ thông qua kênh phân phối điện tử thường được gọi chung bằng khái niệm là “ngân hàng điện tử”. Sự ra đời của dịch vụ ngân hàng điện tử đã làm thay đổi hoàn toàn mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Đó là, trước đây khách hàng muốn thực hiện giao dịch với ngân hàng thì phải đến gặp nhân viên ngân hàng để thực hiện giao dịch thì nay với sự ra đời của các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng điện tử, khách hàng có thể thực hiện giao dịch với ngân hàng từ xa.

Do vậy, đầu tư và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là một trong những biện pháp gia tăng vị thế cạnh tranh của một ngân hàng trên thị trường hiện nay. Thật vậy, dịch vụ ngân hàng điện tử ngày càng trở nên một phương tiện rất thiết yếu để ngân hàng cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng (Amato-McCoy, 2005 trích từ Gonzalez & ctg, 2008). Bên cạnh việc chạy đua trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng tìm cách để cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử sao cho đạt chất lượng và sao cho khách hàng thỏa mãn về chất lượng dịch vụ.

Từ những thực tế này, đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử, nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của khách hàng về chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử là việc làm rất có ý nghĩa nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử trong thời gian tới.

Nắm được tầm quan trọng của chất lượng dịch vụ, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã thực hiện nhiều nghiên cứu về chất lượng dịch vụ. Parasuraman & ctg (1985) đã khơi dòng nghiên cứu về chất lượng dịch vụ và được nhiều nhà nghiên cứu cho là khá toàn diện (Svensson 2002). Hiện nay, hai mô hình chất lượng dịch vụ phổ biến và thông dụng nhất trên thế giới là mô hình SERVQUAL (Parasuraman & ctg 1988) và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng (Gronross, 1983, 1990). Để đo lường chất lượng, Parasuraman & ctg đã đưa ra thang đo gồm năm thành phần, đó là tin cậy, đáp ứng, đồng cảm, năng lực phục vụ và phương tiện hữu hình. Còn Gronroos thì cho rằng chất lượng dịch vụ được xem xét dựa trên hai tiêu chí, đó là chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức năng.

Đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng mô hình SERVQUAL và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng để đánh giá chất lượng dịch vụ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, lại có rất ít nghiên cứu so sánh giữa hai mô hình chất lượng này với nhau. Lassar & ctg (2000) đã thực hiện nghiên cứu về sự thỏa mãn và cảm nhận chất lượng dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng tư nhân tại Mỹ bằng cách so sánh hai mô hình chất lượng trên. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình chất lượng của Gronroos đánh giá chất lượng dịch vụ tốt hơn mô hình SERVQUAL. Trần Xuân Thu Hương (2007) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thư viện đại học và sự thỏa mãn của sinh viên bằng cách so sánh hai mô hình chất lượng này và kết luận rằng mô hình SERVQUAL đo lường tốt hơn.

Với đề tài “Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử: so sánh giữa mô hình SERVQUAL và GRONROOS “, tác giả sử dụng hai mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ phổ biến nhất là mô hình SERVQUAL (Parasuraman et al., 1988) và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng (Gronroos, 1983, 1990) để đánh giá các thành phần ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử, nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và sự thỏa mãn của khách hàng, đồng thời so sánh giữa hai mô hình chất lượng xem mô hình nào đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam tốt hơn.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu:

– Xây dựng mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và sự thỏa mãn của khách hàng theo hai mô hình chất lượng dịch vụ SERVQUAL và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng.

– Điều chỉnh thang đo các thành phần chất lượng dịch vụ theo mô hình SERVQUAL và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng sao cho phù hợp với dịch vụ ngân hàng điện tử.

– Kiểm định mô hình giả thuyết và xác định các thành phần tác động đến sự thỏa mãn của khách hàng về chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử theo từng mô hình chất lượng dịch vụ.

– So sánh kết quả giữa hai mô hình chất lượng dịch vụ SERVQUAL và mô hình Chất lượng kỹ thuật/ Chất lượng chức năng.

Chi tiết mời bạn tải về xem tại đâyCHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ SO SÁNH GIỮA MÔ HÌNH SERVQUAL VÀ GRONROOS

Dâu Tây dạy con phần 2

Dâu Tây dạy con, mẹ chồng đại khai nhãn giới

Con trai du học, sau khi tốt nghiệp rồi định cư tại Mỹ. Và đã kiếm cho tôi con dâu người Tây tên Susan. Hiện giờ, cháu trai Peter đã 3 tuổi. Mùa hè năm nay, con trai vì tôi đã đăng ký visa thăm người thân. Thời gian 3 tháng lưu lại Mỹ, con dâu Tây Susan có cách giáo dục con cái làm tôi đây, người mẹ chồng phải đại khai nhãn giới.

Xem phần 1: Không ăn thì cứ nhịn đói

Phần 2: Ăn miếng trả miếng

Có một lần, chúng tôi dắt Peter ra công viên chơi. Rất nhanh, Peter đã cùng hai cô gái chơi nấu ăn với nhau. Cái nồi nhỏ bằng mũ, cái xẻng nhỏ, cái thau nhỏ, những cái chén nhỏ xếp đầy trên đường. Bất ngờ, Peter tinh nghịch cầm cái nồi bằng nhựa lên, rất mạnh đập lên đầu cô bé kia, cháu gái kia bần thần một lúc và khóc thật lớn. Còn cháu kia khi thấy tình hình vậy cũng khóc thật lớn. Đại khái, Peter cũng không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng như vậy sẽ xảy ra, đứng qua một bên, trợn mắt nhìn.

Susan đi về phía trước sau khi hiểu được đầu đuôi sự việc, nó không quát nạt một tiếng, cầm lấy cái nồi ấy, gõ một cái mạnh lên đầu Peter. Peter không phòng bị, và té ngã xuống bãi cỏ, khóc nức nở lên. Susan hỏi Peter: “Đau không? Lần sau có còn làm thế nữa không?”. Peter một bên khóc một bên lắc đầu. Tôi tin rằng, lần sau nó sẽ không làm thế nữa.

Cậu của Peter đã tặng cho cháu một chiếc xe đạp nhỏ, Peter rất thích, lấy làm bảo bối không cho ai đụng vào. Lusi cô bé trong xóm là bạn thân của Peter, đã thỉnh cầu Peter mấy lần muốn chạy thử chiếc xe nhỏ này, Peter vẫn không đồng ý. Có một lần, mấy cháu nhỏ chơi chung với nhau, Lusi thừa lúc Peter không để ý lén lén nhảy lên chiếc xe, và chạy đi. Sau khi Peter phát hiện rất phẫn nộ, méc với Susan. Susan đang nói chuyện và uống café với mẹ của những đứa nhỏ kia, bèn mỉm cười trả lời con: “Chuyện của chúng con thì chúng con tự giải quyết, mẹ không quản được.” Peter bất lực quay đi.

Qua được ít lát, Lusi chạy chiếc xe về. Peter vừa thấy Lusi thì lập tức đẩy bạn té xuống đất, dật lại chiếc xe. Lusi ngồi bẹp tại đất và khóc lên. Susan ẵm Lusi dậy và dỗ dành một lát. Rất nhanh sau đó Lusi đã chơi vui vẻ lại với những bạn còn lại.
Peter tự mình chạy xe tới lui một lát thì cảm thấy hơi nhàm chán, nhìn thấy những bạn kia chơi thật vui vẻ với nhau nên nó muốn tham gia chung.

Nó đã chạy tới chỗ Susan, lầu bầu thưa: “Mẹ, con muốn chơi với Lusi và chúng nó.” Susan không đả động gì và trả lời: “Con tự kiếm mấy bạn ấy vậy!”.

“Mẹ ơi, mẹ đi với con hen.” Lời thỉnh cầu của Peter. “Chuyện này không được rồi, lúc nãy con đã làm cho Lusi khóc, giờ con lại muốn chơi với mọi người, vậy con phải tự đi giải quyết vấn đề”.

Peter leo lên chiếc xe và chạy từ từ đến chỗ Lusi, lúc gần đến chỗ, thì nó lại quay ngược đi. Chạy tới lui mấy vòng như vậy, không biết từ lúc nào mà Peter và Lusi lại vui vẻ với nhau, hợp thành nhóm ồn ào.

Quản giáo con cái là chuyện của cha mẹ

Cha mẹ của Susan ở tại California, biết tôi đã đến hai người đã lái xe đến thăm chúng tôi. Trong nhà có khách tới, Peter rất hào hứng. chạy lên chạy xuống. Nó lấy cái thùng đựng đầy nước, rồi xách cái thùng bê tới bê lui trong nhà. Susan cảnh cáo nó mấy lần rồi, không được làm nước văng lung tung trong nhà, Peter để ngoài tai.

Cuối cùng Peter đã làm nước đổ hết ra nền. Peter nghịch ngợm còn chưa thấy mình làm sai việc, còn rất đắc ý lấy chân dẫm lên vũng nước, làm ướt hết quần. Tôi lập tức chạy đi lấy cây lau nhà để dọn dẹp. Susan giật lại cây lau nhà và đem đưa cho Peter, nói với nó: “Lau sàn cho khô, cởi đồ ướt ra và tự mình giặt sạch.” Peter không chịu vừa khóc vừa la. Susan không nói thêm lời nào, lập tức kéo nó đến phòng trữ đồ, đóng chặt cửa lại. Nghe từ bên trong tiếng khóc hoảng sợ của nó, tim tôi đau thắt lại, rất muốn chạy đến ẵm cháu ra. Bà ngoại của Peter lại cản tôi, nói: “Đó là chuyện của Susan”.

Đến một lát sau, Peter không khóc nữa, nó ở trong phòng trữ đồ hét thật lớn: “Mẹ ơi, con sai rồi.” Susan đứng ở ngoài hỏi: “Thế giờ con biết phải làm gì chưa?” “Con biết.” Susan mở cửa ra, Peter chạy từ phòng trữ đồ ra, nước mắt đầy mặt. Nó cầm cây lau nhà cao hơn 2 người của nó ra sức lau cho khô sàn nhà. Sau đó tự cởi quần áo dơ ra, xách trên tay, trần chuồng chạy vô nhà tắm, hí hửng giặt đồ.

Ông bà ngoại của nó nhìn vào thái độ kinh ngạc của tôi, thích thú mỉm cười. Sự việc này làm tôi cảm động vô cùng. Ở rất nhiều gia đình Trung Quốc, cha mẹ giáo dục con cái thì thường phát sinh vấn đề “đại chiến thế giới”, luôn luôn được ngoại nuông chiều, nội thì can ngăn, vợ chồng cãi nhau, gà bay chó chạy.

Sau này, tôi và ông bà ngoại của Peter nói chuyện, nhắc đến chuyện này, làm tôi ấn tượng sâu sắc bởi câu họ nói: “con cái là con cái của cha mẹ, trước tiên phải tôn trọng cách giáo dục của cha mẹ”.

Đứa bé tuy còn nhỏ, nhưng lại bẩm sinh nghịch ngợm, lúc nó quan sát được thành viên trong gia đình có phân biệt khác thường, nó sẽ rất nhạy bén lợi dụng sơ hở. Việc này không làm cải thiện hành vi của nó mà chẳng có lợi cho nó. Ngược lại còn làm cho vấn đề càng nghiêm trọng hơn, thậm chí còn đem lại những vấn đề khác.

Ngoài ra, thành viên trong gia đình còn xảy ra xung đột, gia đình có không khí không hòa thuận sẽ đem đến nhiều cảm giác không an toàn cho trẻ, đối với việc phát triển tâm lý của nó phát sinh  ảnh hưởng bất lợi. Cho nên, dù là bậc cha mẹ hay ông bà có vấn đề phân chia giáo dục con cái, hay là vợ chồng có quan niệm giáo dục khác nhau cũng không nên ở trước mặt con cái xảy ra mâu thuẫn.

Ông bà ngoại của Peter ở lại một tuần và chuẩn bị về Cali. Hai ngày trước khi đi, ông ngoại của Peter rất nghiêm túc hỏi con gái mình: “Peter muốn chiếc xe đào đất, tôi có thể mua cho nó chứ?”. Susan suy nghĩ rồi nói: “Cha mẹ lần đến này đã mua cho nó đôi giày trượt băng làm qùa rồi , đến Noel mới mua nó làm quà vậy!”.

Tôi không biết ông ngoại của Peter nói như thế nào với thằng nhóc này, sau đó tôi dắt cháu đi siêu thị, nó chỉ tay vào món đồ chơi đó nói: “Ông ngoại nói, đến Noel sẽ mua tặng cháu cái này làm quà.” Khẩu khí rất thích thú và mong đợi.

Tuy Susan nghiêm khắc như vậy với cháu, nhưng Peter lại yêu thương mẹ hết mực. Khi chơi ở ngoài, nó sẽ thu thập một số hoa hoặc là lá mà nó cho là đẹp rồi trịnh trọng tặng cho mẹ. Người ngoài tặng quà cho nó, nó luôn gọi mẹ cùng mở quà chung; có thức ăn ngon luôn để một nửa cho mẹ.

Nghĩ đến nhiều đứa trẻ Trung Quốc coi thường và lạnh nhạt đối xử đối với cha mẹ, tôi không thể không kính phục con dâu Tây này của tôi. Theo tôi mà nói, ở phương diện giáo dục con cái của các bà mẹ Phương Tây rất xứng đáng để các bà mẹ  học theo.

(Nguồn: Webtretho)

Dâu Tây dạy con, mẹ chồng đại khai nhãn giới

Bài viết nói về cách dạy con cái của bà mẹ người Mỹ, biết thêm một cách dạy con copy về làm tư liệu

Con trai du học, sau khi tốt nghiệp rồi định cư tại Mỹ. Và đã kiếm cho tôi con dâu người Tây tên Susan. Hiện giờ, cháu trai Peter đã 3 tuổi. Mùa hè năm nay, con trai đăng ký visa thăm người thân. Thời gian 3 tháng lưu lại Mỹ, con dâu Tây Susan có cách giáo dục con cái làm tôi đây, người mẹ chồng phải đại khai nhãn giới.

Phần 1: Không ăn thì cứ nhịn đói

Mỗi buổi sáng, sau khi Peter thức dậy, Susan để phần ăn sang lên bàn và bận rộn  làmviệc khác. Peter sẽ tự mình leo lên chiếc ghế, uống sữa, ăn bánh sandwich, sau khi ăn no, nó sẽ tự về phòng của mình, tự tìm quần áo trên tủ, rồi tự lấy giày, tự mình mặc lên. Bất kể chỉ mới 3 tuổi thôi, vẫn chưa phân biệt rõ ràng mặt trái hay mặt phải của bít tất, giày trái hay giày phải.

Có một lần, Peter lại mặc ngược chiếc quần lên người, tôi vội vàng chạy đến muốn thay lại cho cháu, nhưng đã bị Susan cản lại. Nó nói, nếu cảm thấy không thoải mái tự cháu sẽ cởi ra, và mặc lại; nếu nó không cảm thấy không có gì là không thoải mái, vậy thì tùy. Và nguyên ngày đó, Peter mặc cái quần ngược đó chạy tới chạy lui, Susan như không thấy gì hết.

Một lần nữa, Peter ra ngoài chơi với cháu nhà hàng xóm, chưa được bao lâu thì nó chạy thở hổn hển về đến nhà, nói với Susan: “Mẹ ơi, Lusi nói cái quần của con mặc ngược rồi, đúng không? Lusi là con nhà hàng xóm, năm nay 5 tuổi. Susan mỉm cười nói: “Đúng vậy, con có muốn mặc lại không?” Peter gật gật đầu, tự mình cởi quần ra, xem tỉ mỉ rồi, bắt đầu mặc lại. Từ lần đó về sau, Peter không bao giờ mặc ngược quần nữa.

Tôi đã không kiềm được mà nhớ lại, cháu gái ngoại của tôi lúc 5 – 6 tuổi chưa biết dùng đũa, lúc học tiểu học còn chưa biết cột dây giày, và bây giờ đang theo trung học dạng ký túc như nó, mỗi cuối tuần là đem một đống quần áo dơ về nhà.

Có một ngày buổi trưa, Peter giận dỗi, không chịu ăn cơm. Susan la rầy mấy câu, Peter giận hờn đẩy khay cơm xuống đất, thức ăn trên khay rớt đầy trên đất. Susan nhìn Peter, giọng nói nghiêm khắc: “Xem ra con đúng thật không muốn ăn! Nhớ lấy, từ giờ đến sáng mai, con không được ăn gì hết.” Peter gật gật đầu, kiên quyết trả lời: “Yes!” Và trong lòng tôi chợt cười thầm, hai mẹ con này cứng đầu như nhau!

Buổi chiều, Susan bàn bạc với tôi, buổi tối do tôi nấu món ăn Trung Hoa. Trong lòng tôi suy tư một lúc, Peter đặc biệt thích món ăn Trung Hoa, nhất địng Susan cảm thấy sáng nay không ăn được gì hết, nên muốn buổi tối cháu ăn ngon nhiều hơn. Buổi tối hôm đó, tôi trổ tài nấu ăn, làm món sườn chua ngọt mà Peter thích ăn nhất, tôm, và còn sử dụng mì Ý làm theo mì lạnh kiểu Trung Hoa. Peter thích nhất món mì lạnh, người nhỏ nhỏ như thế nhưng có thể ăn được một tô lớn.

Bắt đầu bữa cơm tối, Peter vui mừng nhảy lên ghế ngồi. Susan lại đến gần lấy đi dĩa và nĩa của con, nói: “Chúng ta không phải giao ước rồi, hôm nay con không được ăn gì hết, chính con cũng đồng ý rồi đó.” Peter nhìn khuông mặt nghiêm túc của người mẹ, “òa” lên một tiếng rồi khóc, vừa khóc vừa nói: “Mẹ ơi, con đói, con muốn ăn cơm.” “Không được, nói rồi là phải giữ lời.” Susan không một chút động lòng.

Tôi thấy đau lòng muốn thay cháu cầu xin, nói đỡ lời dùm, nhưng thấy ánh mắt ra hiệu của con trai tôi. Nhớ lại lúc mới đến Mỹ, con trai có nói với tôi: “Ớ nước Mỹ, lúc cha mẹ giáo dục con cái, người ngoài không nên nhúng tay, bất kể là trưởng bối cũng không ngoại lệ.” Không còn cách nào, tôi chỉ còn giữ im lặng mà thôi.

Bữa cơm đó, từ đầu đến cuối, Peter tội nghiệp chỉ ngồi chơi với chiếc xe mô hình, mắt trưng trưng nhìn ba người lớn chúng tôi ăn như hổ đói. Đến đó tôi mới biết dụng ý thật sự của Susan khi để tôi nấu món Hoa. Tôi tin rằng, lần sau, trong lúc Peter muốn giận hờn quăng liệng thức ăn, nhất định sẽ nghĩ đến kinh nghiệm bụng đói nhìn ba mẹ và bà nội ăn cao lương mỹ vị. Bụng đói không dễ chịu tí nào, huống chi là đối mặt với món mình thích ăn.

Lúc ngủ tối, tôi và Susan cùng đến chúc Peter ngủ ngon. Peter cẩn thận dè dặt hỏi: “Mẹ ơi, con đói lắm, giờ con có thể ăn món Trung không?”. Susan mỉm cười lắc đầu, kiên quyết nói: “Không!” Peter nuốt nước miếng lại hỏi: “Vậy để con ngủ dậy rồi khi mở mắt con được ăn chứ?” “Đương nhiên được rồi.” Susan thật dịu dàng khẽ đáp. Peter đã cười tươi ra.

Phần lớn dưới tình trạng này, Peter rất tích cực ăn cơm, nó không muốn vì “tuyệt thực” mà lỡ mất miếng ăn, và chịu cực hình bụng đói. Mỗi lần nhìn thấy Peter ngoạm từng phần lớn thức ăn, lúc miệng và mặt dính đầy thức ăn, tôi lại nhớ đến cháu gái, lúc như tuổi của Peter, vì phải dỗ dành cho nó ăn cơm, mấy người cầm lấy tô cơm và dí theo sau đuôi nó, nó còn chưa chịu ngoan ngoãn, còn ra điều kiện: ăn xong chén cơm mua một kiện đồ chơi, ăn thêm một chén thì mua thêm một đồ chơi…

Phần 2: Ăn miếng trả miếng
(Nguồn: Webtretho)