Nhìn vào hậu trường

Cuối năm 2006, có một ca sĩ từ Hà Nội vào Sài Gòn trong một tâm trạng trầm uất nặng nề, do vướng vào một scandal tình ái ngoài ý muốn, chuyện rất ầm ĩ trên internet. Năm đó, muốn giúp cô quay lại với sân khấu, tôi quyết đưa cô vào danh sách biểu diễn trong một chương trình văn nghệ ngoài trời, diễn ra tại trung tâm thành phố. Dĩ nhiên, đó là một cuộc tranh đấu vật vã muôn phần để vượt qua các hàng rào kiểm duyệt ý thức lẫn thói đạo đức giả của các người có chức phận lúc đó.

Ấy vậy mà, khi đến tiết mục của cô, khi chỉ mới hơn 10 giây nhạc dạo của bài hát mà cô vẫn hay trình diễn, một viên chức mặt còn măng sữa của Thành Đoàn TNCS đã lao đến chỗ tôi và hét lên “ai cho loại người này lên sân khấu?”. Thậm chí, dù cô ca sĩ đó đang hát được gần nửa bài, viên chức đó vẫn loay hoay mưu tìm cách đuổi cô ca sĩ ấy xuống.

Nói đến vậy, để biết, ở Việt Nam, kiểm duyệt là một bàn tay sắt với mọi loại chương trình, đặc biệt chương trình gọi là trực tiếp với công chúng. Bất chấp nội dung là gì, ý thức chính trị và kiểm duyệt len lỏi vào mọi nơi: từng chữ của một bài hát, từng chiếc áo trong phòng hoá trang của nữ diễn viên, thậm chí động tác trên sân khấu cũng được ràng buộc bởi những quy tắc nào đó, để phù hợp với sân khấu xã hội chủ nghĩa. Thậm chí để bảo đảm tính an ninh chính trị, hầu hết các chương trình gọi là trực tiếp, vẫn phát trễ sau 30 phút của giờ diễn thật.

Nên, khi NSND Lê Hùng nói rằng đoạn nhạc quốc ca thứ hai của người Trung Quốc chỉ có mười mấy giây đó, là một việc sơ xuất và có vẻ như không đáng, là điều khó tin được. Mười mấy giây của bài hát ngợi ca Trung Quốc trong chương trình mang tên Khát vọng đoàn tụ – một chương trình diễn ra vào ngày 27/7 vừa rồi để tưởng nhớ đến những người lính Việt Nam đã chết, mà gần nhất trong lịch sử là chết oai hùng, chết tức tưởi… để bảo vệ đất nước trước quân xâm lược Trung Quốc. Sơ xuất là điều đáng để mổ xẻ.

20 năm trước, khi công ước Berne về bản quyền chưa đến Việt Nam thì mọi chuyện thờ ơ ấy, tạm gọi là có thể, nhưng giờ đây, hầu như chương trình nào, tiết mục nào khi có nhạc vang lên, đạo diễn và những người kiểm soát sân khấu vẫn đặt câu hỏi thường nhật là “nhạc ấy ở đâu, dùng được không?”.

Trong mọi câu trả lời trên mặt báo, trong các lời giải thích tạm bợ và vội vã, đều không thấy việc chỉ đích danh ai đã đưa đoạn nhạc kỳ bí ấy vào chương trình ngày 27/7. Theo nguyên tắc tổ chức thì luôn luôn, đoạn nhạc đó phải được duyệt, chấp nhận và được chính thức đưa vào danh sách phát. Có hẳn người phụ trách riêng để làm việc này theo kịch bản. Nếu người phụ trách không thay đổi, thì chỉ có một điều là đoạn nhạc ngợi ca Trung Quốc đã được “nhất trí cao độ” để đưa vào sử dụng.

Trên các trang mạng, tôi thấy nhiều người nói rất nặng ông Lê Hùng là giặc tàu, tên bán nước…tôi không nghĩ ông Hùng dám cam tâm tự mình thực hiện phát nhạc nền Trung Quốc cho chủ tịch Trương Tấn Sang như trong một âm mưu. Gương mặt của ông trên các trang báo khi trả lời phỏng vấn, có một đôi mắt thể hiện một người luôn hãnh tiến nhưng giờ thì hốt hoảng và sợ sệt trong một tai nạn. Nên nhớ vị trí NSND trong lòng các nghệ sĩ miền Bắc là vô cùng lớn lao. Họ luôn tự hào khi viết lá đơn xin danh hiệu đó cùng với tâm trạng thề sẽ cúc cung tận tuỵ, như một nghệ sĩ cung đình chân thành.

Nếu có trách, hãy trách chuyện mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam nhiều năm bị cưỡng bức tắm và uống trong tình hữu nghị 16 chữ vàng với Trung Quốc. Những lần tránh né gọi thẳng tên kẻ gây ra các vụ xung đột, cướp bóc và giết ngư dân Việt trên biển, thay thế bằng “tàu lạ, kẻ lạ”, khiến khoảng cách của ý thức phân định ta – giặc bị mù mờ. Thậm chí ngay cả sách lịch sử giáo khoa Việt Nam cũng ngại việc gọi tên Trung Quốc là giặc xâm lược, thì âm nhạc ca ngợi ta hay nhạc ca ngợi “nước lạ” cũng mù mờ vậy thôi. Thời gian bào mòn ý thức và sự tỉnh táo về dân tộc và ngoại bang mới đáng sợ làm sao!

Nếu có trách, hãy nhớ và trách ai đó – bí ẩn và khốn nạn – tìm cách xoá đi sự thật. Những kẻ rắp tâm kéo kẻ thù gần với dân tộc hơn bằng thực phẩm, bằng trò vui và tập quên những nỗi đau lịch sử. Nhà báo Huy Đức từng nhắc về chuyện biên giới tháng 2/1979, sau chiến tranh, Bắc Kinh đột nhiên thành bạn răng môi, những ghi nhớ tội ác xâm lược của Trung Quốc đột nhiên mất dần. Tấm bia ghi nhớ ở xã Hưng Đạo, huyện Hoà An về quân xâm lược Trung Quốc dùng búa đập chết 43 phụ nữ và trẻ em như một trò chơi bị giấu đi vào bụi rậm. Mới đây nhà báo Lê Đức Dục cũng cho biết bia tưởng niệm ở đồn biên phòng Phú Mỹ, Kiên Giang cũng bị giấu đi mất dạng. Bia nói về 38 người lính chết anh dũng ở đây để chống lại quân Khmer Đỏ, cánh tay mặt chia lửa của Trung Quốc. Hôm nay, nếu thường dân và NSND Việt Nam có lầm lạc về kẻ thù do cứ bị giấu nhẹm dần, thì đó cũng là lẽ đương nhiên.

Nam Phong tạp chí số 143 (1929) có ghi lại chuyện Mạc Cửu thần phục nhà Nam năm 1714, nhưng vẫn mang theo tâm khí truyền đời của giặc Phương Bắc, nên vẫn tìm cách trấn yểm linh khí đất Nam, nhằm có cơ hội cướp cả triều đình. Trong sách nghiên cứu Thất Sơn Huyền Bí của Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu có ghi lại chuyện nhiều đời họ Mạc cũng như các thầy địa lý đi từ Tàu sang, chôn cọc có trấn bùa ở Tịnh Biên, Bảy Núi, để mong huỷ diệt anh linh Việt. Từ năm 1849 cho đến 1856, đức Phật Thầy Tây An từng gửi thư cho Đức Cố Quản Thành để nhắc phòng ngừa chuyện này. Hiện một vài di tích về âm mưu này, trước năm 1975, vẫn còn được để ở dinh thờ tại Láng Linh (Châu Đốc), gồm cọc bùa và thẻ, bùa chú ghi tiếng Tàu, chôn giấu ở núi và sông vùng Bảy Núi, được tìm thấy.

Thế giới hiện đại không thể có tình đại đồng bất phân như trong sách thiếu nhi. Người Trung Quốc vẫn ghi nhớ người Nhật là kẻ thù. Người Do Thái ghi tâm người Đức không thể là bạn. Người Campuchia thì dễ hiềm khích với người Việt, và người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ, người Việt Nam không có cớ gì quên đi lịch sử rằng mình có những lý do phải lo ngại Trung Quốc.

Việc bào mòn ý thức ấy, cũng như những thẻ bùa yểm mà “kẻ lạ” đã từng âm thầm cài đặt trên đất nước Việt nhằm huỷ diệt nguyên khí tổ tiên để lại. Mà hôm nay, đoạn nhạc “mười mấy giây” ngày 27/7 nhắc nhở và thúc đẩy đoàn tụ với tổ quốc xa xôi nào đó, chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Điều cần phải tìm và giải quyết là phải nhổ bật mọi cọc nhọn được cài đặt, đang nhằm vào trái tim Việt, mà cay đắng thay, kẻ đóng cọc có thể không phải từ “nước lạ” lén lút đến, mà ngang nhiên là từ những người cùng màu da, tiếng nói nhưng linh hồn đã lạc loài.

Trách phạt một chương trình văn nghệ hay kỷ luật ông Lê Hùng đâu có nghĩa lý gì. Và chúng ta cũng đừng dễ dàng hài lòng với một kết quả quá nhanh và quá nguy hiểm như vậy. Chuyện “chỉ mười mấy giây” ắt đã phải bắt nguồn từ mười mấy năm, hoặc hơn. Đừng nghe những gì họ đang nói, mà có lẽ nên nhìn kỹ hơn những gì họ đã làm.

Theo Blog nhạc sĩ Tuấn Khanh

Nhà thơ Hữu Loan tự sự về bài Màu Tím Hoa Sim

Nàng có ba người anh

Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê …

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh …

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim …,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

Hữu Loan

 

Nha tho Huu Loan

Nhà thơ Hữu Loan

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.

Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.

Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.

Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…

Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.

Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

– Thầy có thích ăn sim không ?

Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.

– Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:

– Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.

Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.

Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: “yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.

Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.

Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..

Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!

Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…

Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép.

Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…

Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời… từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều… Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!

Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…

Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý…

Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.

Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản…

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.

Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.

… Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc….

Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ…

Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán”.

Nhà thơ Hữu Loan

Theo Petrotime http://petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/cong-dong-mang-roi-nuoc-mat-vi-tu-su-don-dau-cua-cha-de-mau-tim-hoa-sim.html#.VSH5a-hXh5k.facebook

 

Bài học từ phim Tôn Ngộ Không

Thêm một bài học từ bộ phim mà dường như tuổi thơ ai cũng đã từng xem qua Tôn Ngộ Không, với mình khi xem lần đầu thì nó là một bộ phim hoàn toàn giải trí giúp mình thêm tò mò và tưởng tượng hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên bộ phim này được chiếu đi chiếu lại nhiều lần trên truyền hình và không những trẻ con mà người lớn, những người đã từng xem qua rồi thì xem lại cũng không thấy chán bởi sức cuốn hút của từng tập phim. Sự lôi cuốn của bộ phim không chỉ ở các kỹ xảo điện ảnh mà ẩn trong đó là những triết lý của cuộc sống, một nét văn hoá rất gần gủi với người á đông chúng ta đó là phật giáo. Thoạt đầu mình chỉ ngẩm ra rằng con người chúng ta bắt nguồn từ hòn đá mà ra, sau đó trời phật ban tặng những khả năng riêng trong cuộc sống cho mỗi người tương ứng với những đạo đức mà họ tạo nên ở kiếp trước và những gì hiện tại của họ đang đeo đuổi. Bộ phim cũng khuyên dạy chúng ta rằng cuộc sống luôn có luật nhân quả, và nó sẽ hiện hữu trong nay mai nếu chúng ta không tu tâm dưỡng tính. Để có những ngẩm nghỉ như vậy thì đến lúc năm 2 của Đại học, rảnh rổi ngồi xem lại thì mới được vậy hihi.

Đến năm học thứ 3 của Đại học thì mình biết đến một bài học nữa rút ra từ bộ phim này, xin đọc thêm tại đây

Và hôm nay trên internet có thêm 4 bài học nữa rút ra từ bộ phim này, giúp chúng ta có một cái nhìn, một bài học quý báu trong cuộc sống, công việc kinh doanh đặc biệt là những người đang làm ở vị trí quản lý.

1. Niềm tin tối cao

Cái đầu tiên mà Đường Tăng có mà Tôn Ngộ Không không có đó là niềm tin tối cao

Đường Tăng luôn tiến về phía trước bằng niềm tin cao nhất của mình, dù có hi sinh tính mạng không từ bỏ, nhưng Ngộ Không thì không thể. Anh ta năng lực tốt, nhưng không kiên định vào mục tiêu của mình, nhiều lần đánh trống bỏ dùi. Người không có niềm tin, sẽ khiến người khác không tin theo và mất đi động lực, khi gặp phải khó khăn thì dễ dàng chùn bước, người lãnh đạo một khi khiếp đảm, lùi bước rồi, thì đoàn đội anh ta cũng tan vỡ theo.

Với những người không có đủ niềm tin tối cao cũng không được, chỉ trông vào lợi ích cá nhân, biết mình không biết người thì chỉ khiến người khác bỏ mình mà đi. Giống như Tống Giang trong Thủy hử truyện, là một người không có niềm tin tối cao, cuối cùng bị chiêu an, mà cái lý tưởng cao nhất của ông ta cũng chỉ có vậy, vì thế mà hại chết cả đồng đội của mình.

2. ‘Vô Dụng’ cũng là tài sản quý giá của một người lãnh đạo

Cái thứ 2 mà Đường Tăng có mà Tôn Ngộ Không không có chính là ‘Vô Dụng’.

Đường Tăng vô dụng như vậy nên ông ta mới thích người có bản lĩnh, mới có thể bao dung những khuyết điểm của người khác (cũng vì như vậy nên phần lớn những chuyên gia kỹ thuật không làm nổi ông chủ), và mới tìm được ba đồ đệ tài ba bảo hộ mình. Nếu như Đường Tăng cũng thần thông quảng đại, thì Tôn Ngộ Không sẽ không tình nguyện theo ông ta rồi.

Cũng chính vì Đường Tăng vô dụng mà Tôn Ngộ Không mới có đất dụng võ, mới khiến anh ta có thể thể hiện được hết giá trị của mình.Cứ xem Tôn Ngộ Không dù năng lực có mạnh như vậy, nhưng đám đồ tử đồ tôn của anh ta ở Hoa quả sơn, cũng chỉ toàn là lũ vô dụng (thùng cơm), không một ai được việc gì. Vì bản lĩnh của anh ta quá lớn, anh ta mới xem thường khả năng của người khác, vậy là những người có năng lực cũng không thích cùng anh ta. Bản thân là kẻ mạnh, nhưng đoàn đội của anh ta lại trở thành một lũ vô dụng.

Nhiều công ty, xí nghiệp đều có một ông chủ vô cùng giỏi giang, nhưng lại dẫn dắt một đoàn quân vô dụng. Lúc đầu khởi nghiệp, vì sinh tồn, mà bắt buộc phải như vậy để tồn tại, nhưng một khi vấn đề sống còn (sinh tồn) được giải quyết rồi, thì lẽ ra những ông chủ này phải suy nghĩ xem làm thế nào để tạo cơ hội cho những nhân viên tự phát huy khả năng của mình, đồng thời tìm kiếm để bù đắp những công nhân mình còn thiếu, chứ không phải là phàm việc gì cũng tự mình nhúng tay làm (sự tất cung thân), thậm chí ở lĩnh vực chuyên môn không hiểu cũng cứ giả vờ là hiểu.

Như thế một mặt làm mình mệt mỏi đứt hơi, tối mũi tối mắt lo ứng phó, thì tự nhiên còn đâu con đường phát triển. Mặt khác nhân viên của mình cũng bị ‘lùn hóa’ thành ‘công cụ làm việc’ (tay chân); sự phát triển của công ty đi đến chỗ nút thắt cổ bình. Nhiều ông chủ cho rằng chỉ dựa nhân viên thì không được, không thể yên tâm, nếu công ty chỉ dựa vào một mình Tôn Ngộ Không, ngộ nhỡ anh ta không tốt, thì biết thế nào. Khà khà, sao không niệm chú cho vòng kim cô thắt chặt vào? Phải xây dựng một chế độ chính sách để ràng buộc người tài – điều này nhất định không được quên.

3. Nhân đức

Cái thứ ba mà Đường Tăng có, Tôn Ngộ Không không có là ‘nhân đức’.

Vì có lòng nhân đức nên Đường Tăng thương hại cả tính mạng của yêu quái, như thế cũng sẽ không biết so đo với thuộc hạ của mình, sẽ không phạt hay trừ tiền công của họ, không ức hiếp họ phải tăng ca, không thực hiện ‘tẩy não giáo dục’, không lợi dụng họ gánh thay trách nhiệm pháp luật, che chắn bản thân khi gặp nguy hiểm,…

Đường Tăng mặc dù lợi dụng ba đồ đệ bảo hộ mình, nhưng lại tuyệt đối không có ý bóc lột mà lại dẫn dắt họ cùng nhau nỗ lực, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau thành công. Sau cùng, ba đồ đệ của Đường Tăng cũng đều đạt được thành tựu .

Đường Tăng không giống như Triệu Khuông Dẫn ‘chén rượu tước binh quyền’ hoặc là ‘chim trời chết, chó săn cũng thịt’. Còn với Tôn Ngộ Không thì ý thức này của anh ta kém xa sư phụ của mình, sau này khi là ‘đấu chiến thắng Phật rồi’, nhưng bầy quân của anh ta ở Hoa quả sơn cũng vẫn chỉ là bầy khỉ hoang mà thôi.

Ở Nhật Bản có một công ty, họ mời bố của nhân viên đến công ty ngồi tọa đàm với các quản lý. Ông chủ công ty nói với toàn bộ quản lý, khi các vị không biết phải đối đãi thế nào với những nhân viên dưới quyền của mình, thì hãy nghĩ lại ngày hôm nay, những ông bố của nhân viên mình đã gửi gắm con của họ cho các vị, là mong các vị có thể giáo dục họ trưởng thành, dẫn dắt họ đi đến thành công. Các vị phải nghĩ xem bản thân mình đã xứng với sự ủy thác đó chưa?

4. Mối quan hệ

Cái thứ tư Đường Tăng có mà Tôn Ngộ Không không có đó là ‘mối quan hệ’ (nhân tố quan hệ).

Kiếp trước của Đường Tăng đã là đệ tử của Phật thích ca mâu ni, còn Tôn Ngộ Không chỉ là một con khỉ đá do trời đất sinh ra không mảy may có một mối quan hệ dây dưa nào. Mặc dù anh ta có bái một vị sư phụ, nhưng lại kém cái quan hệ với với các sư huynh đệ đồng môn, sau cùng lại còn bị sư phụ đuổi xuống núi (tống cổ), kết anh em với Ngưu Ma Vương, nhưng sau rồi cũng lại phản, là hàng xóm với Đông Hải Long Vương vậy mà còn cướp đoạt đồ nhà người ta, cùng là đồng sự (đồng nghiệp) với Nhị Lang thần và các quan tướng khác ở thiên đình nhưng chẳng tôn trọng nể mặt người khác (làm mất mặt đồng nghiệp). Cuối cùng lại còn gây đại náo thiên cung, ‘đá đít’ nhiều người. Cuốn sách ‘Ai che lưng cho bạn’ cũng đã nói cấm có sai, ở Việt Nam ta nhất quan hệ rồi nhì mới đến tiền tệ có lẽ cũng là cái quy luật này.

Tóm lại, mối quan hệ xã hội của TNK rất không tốt. Đường Tăng thì không giống như vậy. Ông nhìn thấy thần tiên đều rập đầu bái lạy, cũng không có một kẻ thù nào. Ông không những là đệ tử của Như Lai, lại còn là ngự đệ của vua Đường Lý Thế Dân. Mối quan hệ cao cấp ở cả hai giới người và thần đều có, quan hệ không những tốt mà còn là quan hệ ở cấp cao, quan hệ thông thiên.

Người như vậy thì làm ông chủ sẽ thuận buồn xuôi gió. Xã hội là do con người cấu thành, quả đất này nếu không có con người, thì tất cả sự giàu có, tất cả vật chất đều không có ý nghĩa gì hết. Con người là nguồn tài nguyên bản chất nhất thế giới này, là sáng tạo của mọi tài sản. Là một ông chủ, về đối ngoại phải biết tạo dựng những mối quan hệ (nguồn quan hệ), đối nội phải biết sáng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao (nhân tài).

Tóm lại, Đường Tăng hơn Tôn Ngộ Không những thứ gì ?

ĐÓ LÀ NIỀM TIN TỐI CAO, ‘SỰ VÔ DỤNG’, TRÁI TIM NHÂN ĐỨC và HỆ THỐNG QUAN HỆ XÃ HỘI TỐT.

Vì thế Đường Tăng có thể làm lãnh đạo, có thể lãnh đạo được Tôn Ngộ Không. Dù Tôn Ngộ Không trong mắt chúng ta là một anh hùng, nhưng anh ta lại không thể tự mình làm nên sự nghiệp vĩ đại, anh ta cần thiết phải dựa vào Đường Tăng dẫn dắt mình. Với ý nghĩa này, Đường Tăng mới là một anh hùng, ít nhất cũng là anh hùng mà những ai làm ông chủ thực sự sùng bái.

Theo Internet

Giới thiệu phần mềm SPSS

Hướng dẫn sử dụng SPSS 20.0

Tiếng kẻng an ninh

Nhằm phòng chống trộm cắp tội phạm ở địa phương UBND xã đã phát động phong trào “tiếng kẻng an ninh” để mỗi khi người dân phát giác tội phạm dùng tiếng kẻng để kêu gọi mọi người trong thôn tham gia truy bắt tội phạm.

Tiếng kẻng anh ninh được làm bằng ống tre, cây tre chọn làm kẻng được chọn lọc kỹ càng tre phải to ống và phải già như vậy khi làm kẻng thì đánh vào thì tiếng kẻng phát ra âm thanh to và vang vọng. Ống tre làm kẻng được cưa lấy mắc bằng 2 đầu chuốt mắc cho mượt sau đó khoét một lỗ nhỏ và dài dọc theo ống nhằm khi gõ kẻng phát ra âm vang xa hơn ngoài ra có cái lỗ như vậy để tiện cất giữ dùi đánh kẻng. Hai đầu ống tre buộc một sợi dây để tiện lúc mang kẻng khi đánh và truy bắt tội phạm.

Dùi kẻng cũng làm bằng tre yêu cầu phải là gốc tre như vậy thì cái dùi kẻng mới rắn chắc đánh vào kẻng mới kêu to và vọng. Thanh tre được cắt ngắn tầm 3 gang tay sau đó chuốt cho tròn không to cũng không nhỏ quá, theo quan sát của tôi cái dùi kẻng tôi chụp được nhà hàng xóm thì to bằng ngón tay cái người lớn.

Song song với kẻng thì có một sợi dây dừa tầm khoản 2m đề phòng khi bắt được tội phạm thì dùng dây này để trói tội phạm chờ Công an địa phương tới xử lý.

Để người dân thuần thục việc dùng kẻng UBND xã tổ chức một đợt tập huống trong thôn. Tình huống giả định là vào khoản 10h tối một kẻ trộm đột nhập vào chuồng heo để bắt trộm gà nhà bà Ba. Nghe tiếng gà quát lên bà Ba liền dùng kẻng gõ báo trộm kêu gọi sự giúp đỡ của hàng xóm. Khi nghe được tiếng kẻng phát ra từ nhà bà Ba cả xóm đều tỉnh giấc người người mang kẻng ra đường đánh thức cả xóm dậy dùng kẻng đánh inh tai, cuối cùng một hồi đánh kẻng thì kẻ trộm mặt dù là giả định nhưng cũng được chạy thoát.

Hy vọng với tiếng kẻng an ninh này quê tôi bớt đi trộm vặt.

NTDSC_0732

DSC_0733DSC_0734

Hoàng Sa – nỗi đau mất mát

Xem bộ phim này ứa nước mắt, phải nói thật là người Việt Nam mình chưa ghi lại được những thước phim như thế này,  cũng có thể được ghi lại ở đâu đó nhưng không được công chiếu, để người nước ngoài xót xa đến nỗi phải bỏ thời gian, nguồn lực của họ ra để ghi lại những hình ảnh xé lòng này phải nói đó là nỗi bất hạnh của con cháu sau này.

Đây là bộ phim do André Menras – Hồ Cương Quyết thực hiện

Bình luận của Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn, theo FB Nguyễn Văn Tuấn

Tôi mới xem xong bộ phim “Hoàng Sa – nỗi đau mất mát” (1) do André Menras Hồ Cương Quyết thực hiện. André không phải là người xa lạ trong “cộng đồng” những người quan tâm đến Hoàng Sa – Trường Sa. Ông là người có mặt trong các cuộc biểu tình chống Tàu ở Sài Gòn. Ông còn là một người nói tiếng Việt thông thạo, và viết báo rất hay. Bộ phim “Hoàng Sa – nỗi đau mất mát” được thực hiện từ năm 2011, nhưng bị lực lượng an ninh Sài Gòn ngăn cản không cho trình chiếu. Tuy nhiên, nay thì bộ phim được cho trình chiếu!

André dẫn dắt người xem từ vị trí của Biển Đông và bản đồ lưỡi bò của Tàu cộng, đến một buổi sáng an lành ở một làng chài Sa Kỳ (Quảng Ngãi). Chúng ta sẽ ghé thăm những ngôi mộ gió ở Sa Kỳ. Mộ gió là mộ không có hài cốt phía dưới, chỉ là những cấu trúc mộ để tưởng nhớ những người đã qua đời trên biển. Sau đó, André phỏng vấn hàng loạt các gia đình có người thân đã từng đi đánh cá và từng bị Tàu cộng giết chết ở Hoàng Sa. Một số người còn sống sót kể lại những giây phút kinh hoàng dưới tay bọn cướp biển Tàu cộng. Có những đoạn tôi nghĩ bất cứ người bình thường nào cũng có thể rơi nước mắt.

Sau Sa Kỳ, André dẫn chúng ta ra đảo Lý Sơn. Ở đây, chúng ta sẽ thấy bia chủ quyền được dựng từ thời Triều Nguyễn. Một lần nữa, chúng ta nghe qua những câu chuyện đau lòng của vợ mất chồng, mẹ mất con, em mất anh, tất cả đều xảy ra ở các quần đảo Hoàng Sa. Rất nhiều gia đình rơi vào cảnh túng quẩn, khánh kiệt. Nhưng dù biết hiểm nguy trực chờ, ngư dân vẫn ra biển đánh cá, bởi vì họ không có lựa chọn nào khác. André gọi họ là những anh hùng đời thường.

Cuốn phim được quay khá chuyên nghiệp (vì có sự hỗ trợ của Đài truyền hình TPHCM) và có nhiều cảnh cùng những câu nói [của người được phỏng vấn] rất “chiến lược”. Có đoạn, ông André Menras hỏi “Có nhớ Hoàng Sa không?” Một anh ngư dân đã từng bị Tàu cộng bắt và hành hạ 4 lần cười buồn nói nhớ chứ, Hoàng Sa là quê hương gần của mình mà. Lại có câu hò “Hoàng Sa trời đất mênh mông… người đi thì có mà không thấy về…” Nghe mà ứa nước mắt trong lòng. Thật ra, phim có nhiều nước mắt hơn là nụ cười.

Một mẫu số chung trong tất cả các câu chuyện là các ngư dân bị Tàu cộng bắt và đánh đập, nhưng không rõ vai trò của các lực lượng như hải quân và cảnh sát biển. Qua những câu chuyện này, chúng ta có thể nói rằng ngư dân ra biển và họ không được yểm trợ từ Nhà nước. Ngay cả khi bị Tàu cộng bắt và chúng đòi tiền chuộc, thì người dân cũng tự xoay xở để trả tiền cho Tàu cộng. Có đoạn, đạo điễn cho thấy hoá đơn trả tiền cho Tàu cộng qua ngân hàng VietinBank. Hầu hết gia đình nào cũng thiếu nợ từ 100 triệu đồng đến 400 trăm triệu đồng, một số tiền rất lớn.

André cho biết khi phim này được chiếu ở Sài Gòn, một vị lãnh đạo nhận xét rằng “bộ phim này không có tính đảng”! Rất khó hiểu “tính đảng” là gì, có lẽ vì phim không đề cập đến chính quyền và đảng chăng. Bộ phim rất thực tế vì phản ảnh đời sống cơ cực của những người ngư dân và gia đình phải đối phó với những tai ương từ Tàu cộng. Đúng như lời nói đầu của phim viết “Bộ phim là tiếng nói chân thật của các ngư dân miền Trung bị tàu Trung Quốc cướp bóc, đánh đập, hành hạ tại vùng biển đảo Hoàng Sa của Việt Nam. […] Trong phim … còn là một thông điệp cho bất cứ kẻ xâm lược nào rằng: họ không bao giờ chịu bị cướp đoạt những điều họ quí nhất, đó là linh hồn của người thân, vùng biển truyền thống của tổ tiến, niềm tự hào của họ quyền sống còn của mình và của con cháu mình.” Một bộ phim như thế quả thật mang tính nhân văn và thiết thực. Tính nhân văn của bộ phim chắc chắn cao hơn tính chính trị gấp ngàn năm ánh sáng.

Người ta ngạc nhiên một bộ phim giàu nhân văn tính như thế mà bị cấm trình chiếu ở Sài Gòn! Không ai biết ai là người ra lệnh cấm chiếu, nhưng có lẽ điều đó không còn quan trọng nữa (nếu có nó cho chúng ta biết có người không thích sự thật). Nhưng ở VN, quyết định cứ thay đổi xoành xoạch, và có khi nhằm phục vụ cho ý đồ chính trị nào đó, nên bây giờ bộ phim lại được cho trình chiếu. Trong bối cảnh Tàu cộng cấm giàn khoan trong vùng biển VN, dùng tàu đâm húc vào tàu VN hầu như hàng ngày, việc xuất hiện của bộ phim này rất có ý nghĩa.

Hình như chưa có một đạo diễn VN nào làm phim như thế này hay về Hoàng Sa ở góc độ nhân văn. Có thể xem những lời nói trong phim như là những chứng từ lịch sử. Do đó, đóng góp của André Menras rất quan trọng. Xin có lời cám ơn và ngưỡng phục gửi đến André Menras Hồ Cương Quyết.

Nếu bạn chưa xem, nên tìm xem bộ phim này để biết về hoàn cảnh của các ngư dân Lý Sơn và ngư trường Hoàng Sa.

Làm trai cứ nước hai mà nói

Theo tuổi trẻ

TT – Kho tàng tục ngữ Việt phản ánh triết lý, xã hội và văn hóa người Việt. Những ưu điểm, phẩm chất cao đẹp của dân tộc ta được bộc lộ trong tục ngữ.

“Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” nên chuột cũng biết lo lót quà cáp cho mèo để việc đại hỉ được “đầu xuôi đuôi lọt” trong bức tranh dân gian nổi tiếng Đám cưới chuột

Tay có ngón ngắn ngón dài, người có năm bảy hạng nên có những quan điểm sống trái ngược nhau. Do vậy tục ngữ cũng là tấm gương phản chiếu những tật xấu, nhân sinh quan của một bộ phận người Việt.

Trước hết đó là tính cá nhân, vị kỷ, chỉ biết vơ vén cho mình, cho gia đình, họ hàng, với lối sống khôn lỏi, ranh vặt: khôn sống mống chết, khôn ăn người dại người ăn. Và tạo ra những vây cánh họ tộc: trong họ ngoài làng, một người làm quan cả họ được nhờ.

Người Việt trọng miếng ăn: đánh mõ không bằng gõ thớt, muốn ăn trước người, còn khó khăn, nguy hiểm đùn cho người khác: ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.

Của chùa, của người thì bồ tát mặc sức xài xả láng, còn của mình thì lạt buộc. Điều gì cá nhân không hưởng lợi thì không làm: ôm rơm rặm bụng.

Việc chung sẽ có người khác lo, tội gì ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng, chỉ tổ lắm thóc, nhọc xay. Ấy vậy nên cha chung không ai khóc.

Lối sống vô cảm cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi cũng sinh ra từ tính cá nhân, ích kỷ.

Muốn sống yên ổn trong một xã hội nhiều tai bay vạ gió, con người phải thu mình lại, tránh những vạ miệng, nói năng nước đôi: người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo, làm trai cứ nước hai mà nói hoặc mũ ni che tai, việc ai chẳng biết.

Có lối sống an phận lão giả an chi, nhẫn nhục im lặng ngậm miệng ăn tiền, cam chịu thân hèn không dám động đến những người quyền chức, còn do miệng quan trôn trẻ, lươn lẹo khó lường. Thấp cổ bé họng nhưng muốn sống an toàn nên sẵn sàng lo lót, chạy chọt.

Dẫu nghề nào cũng “ăn”, cũng “tham nhũng vặt”: thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thợ bồ ăn nan, thợ hàn ăn thiếc… nhưng nghề làm quan thì hết biết: quan thấy kiện như kiến thấy mỡ. Nghề làm quan kiếm ăn dễ nhất, “khủng” nhất, tham nhũng lớn nhất khiến bà mẹ phải thốt lên: Con ơi mẹ bảo con này/cướp đêm là giặc cướp ngày là quan. Quan mới hay bới chuyện. Vô phúc mới lôi nhau lên quan. Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc, bởi nén bạc đâm toạc tờ giấy.

Coi mình là trung tâm, cái gì của mình cũng hơn và thiên lệch đến vô lý: Ta về ta tắm ao ta/dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.

Mình là nhất nên không thích và cũng không có khả năng hợp tác, nhất là khi quyền hành nắm trong tay. Hậu quả là lắm thầy thối ma, lắm cha con khó lấy chồng. Tự cao đấy nhưng cũng lại tự ti đấy: văn mình, vợ người.

Anh em sinh đôi của tính ích kỷ, cá nhân là bệnh háo danh, dẫu là hư danh. Trạng Quỳnh từng được người làng cầu cạnh giúp họ trở nên ông nọ bà kia, với cuộc đời một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Sinh thói trọng hình thức, rồi nạn mua quan bán tước.

Có cầu ắt có cung. Hình thành những người hành nghề “chạy” (chạy chức, chạy quan, chạy bằng cấp, chạy huân chương, chạy danh hiệu…), và những người làm giả tất tần tật mọi thứ, tạo ra một xã hội đầy rẫy những giá trị giả.

Háo danh nên chỉ thích được khen, khó chịu cả với những lời chê hợp lý. Người Việt chỉ sợ mang tiếng chứ không sợ làm điều xấu.

Trong các từ điển tiếng Việt, chỉ có cụm từ (sợ) mang tiếng, (sợ) mất mặt mà không thấy (sợ) cái xấu. Còn công việc thì lại đùn đẩy nhau trách nhiệm, biên chế càng phình lên thì công việc càng rối và bê trễ, lắm sãi không ai đóng cửa chùa.

Đáng sợ nhất là thói kèn cựa con gà tức nhau tiếng gáy, trâu buộc thì ghét trâu ăn, quan võ thì ghét quan văn dài quần và thậm chí không ăn thì đạp đổ.

Một xã hội mà tính cá nhân, đố kỵ nổi trội lại rất háo danh và coi trọng hình thức sẽ không có chỗ đứng cho những người tài, muốn đóng góp cho đất nước luôn vươn tới những tầm cao mới.

Đánh chó phải ngó chủ

Nhiều vụ việc trong đời sống, nhiều cách hành xử cho thấy người Việt rất nhớ câu đánh chó phải ngó chủ, gió chiều nào che chiều ấy, cốt sao được an toàn. Và cũng là lối sống phù thịnh, chẳng ai phù suy. Ai chẳng may gặp rủi ro, thất thế thì người ta nhờ gió bẻ măng, thừa cơ đục nước béo cò, giậu đổ bìm leo dìm cho chết luôn.

NGUYỄN ĐỨC DÂN

Mừng ngày Quốc tế phụ nữ 8/3

Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Tôi xin gửi lời chúc đến tất cả Mẹ, các Chị em một ngày 8/3 đầy niềm vui và hạnh phúc. Chúc cho các Mẹ các Chị em gặt hái nhiều thành công trong công việc và cuộc sống.

Chuc mung 8.3

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 có từ khi nào?

Theo người đưa tin

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 hàng năm không chỉ là ngày dành riêng cho nữ giới. Đây cũng chính là cơ hội để xã hội, đặc biệt là nam giới, ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ trong các lĩnh vực và đảm bảo quyền lợi hợp pháp và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ.

Ngày Quốc tế Phụ nữ khởi nguồn từ các hoạt động của phong trào lao động thế kỷ 20 ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Ngay từ những điểm khởi đầu sơ khai đó, ngày Quốc tế Phụ nữ đã mở ra một xu hướng toàn cầu cho sự phát triển của phụ nữ ở các nước, kể cả các nước đang phát triển và các nước phát triển.

Ngày 8/3/1857, nữ công nhân lao động ngành dệt may Thành phố New York (Mỹ) đã diễu hành và đình công đòi được cải thiện điều kiện làm việc và đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ. Ngày 8/3/1908, cũng tại New York, 15.000 phụ nữ đã diễu hành đòi giảm giờ làm, tăng lương, đòi quyền được bầu cử và chấm dứt lao động trẻ em. Năm 1909, ngày Phụ nữ Quốc gia lần đầu tiên được tổ chức ở Mỹ vào ngày 28/2/1909. Khi đó, Đảng Xã hội Mỹ lấy ngày này để kỷ niệm cuộc đình công của nữ công nhân ở New York năm 1908.

Năm 1910, Đại hội Phụ nữ thế giới lần thứ 2 tại Đan Mạch đã công bố lấy ngày 8/3 làm ngày Quốc tế Phụ nữ, thể hiện quyết tâm đấu tranh giành quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em. Năm 1911, ngày Quốc tế Phụ nữ được tổ chức tại các nước Áo, Đan Mạch, Đức và Thụy Sĩ với hơn một triệu phụ nữ và nam giới tham gia vào các cuộc biểu tình. Bên cạnh việc đòi quyền bỏ phiếu và nắm giữ các chức vụ công quyền, những người biểu tình còn đòi quyền làm việc cho phụ nữ, quyền được đào tạo, xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ và bình đẳng giới trong lao động.

Như vậy, phong trào đấu tranh giải phóng phụ nữ không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ mà còn ở các nước Châu Âu và nhiều nơi khác trên thế giới. Vào những năm 1913-1914, ngày Quốc tế phụ nữ trở thành cuộc biểu tình chống Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Một số nơi khác ở Châu Âu, vào dịp 8/3 phụ nữ tổ chức biểu tình chống chiến tranh hoặc đơn giản là thể hiện tình đoàn kết. Năm 1917, trong bối cảnh chiến tranh, 90.000 nữ công nhân lao động của Nga thuộc 50 xí nghiệp ở thành phố Petrograd đã biểu tình và đình công vào ngày Chủ nhật cuối cùng của tháng Hai 23/2 theo lịch Nga cũ (nhằm ngày 8/3 dương lịch). Bốn ngày sau đó Nga Hoàng thoái vị và Chính phủ lâm thời đã đồng ý dành cho phụ nữ Nga quyền bỏ phiếu.

Từ năm 1950 tại Việt Nam, vào ngày mùng 6 tháng hai âm lịch mỗi năm đều có tổ chức ngày lễ Hai Bà Trưng ở Sài Gòn, và sau đó đã dùng ngày lễ này làm ngày Phụ nữ. Mỗi năm đều chọn một nữ sinh trường Trưng Vương và một nữ sinh trường Gia Long đóng vai Hai Bà Trưng ngồi trên bành voi trong dịp cử hành lễ.

Về sau, ngày Quốc tế Phụ nữ được phổ biến ở cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, trở thành một ngày lễ được ghi nhận và kỷ niệm ở khắp năm châu. Bên cạnh đó, phong trào nữ quyền thế giới ngày càng phát triển và được khích lệ bởi các quốc gia cũng như các Hội nghị Phụ nữ toàn cầu của Liên Hợp Quốc (LHQ). Các hội nghị này đề cao sự phát triển của phụ nữ, hỗ trợ các quyền và sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị. LHQ lần đầu tiên kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 vào năm 1975 (năm Phụ nữ Quốc tế).

Hai năm sau, vào tháng 12 năm 1977, Đại hội đồng LHQ đã thông qua nghị quyết tuyên bố các nước thành viên kỷ niệm ngày 8-3 như là ngày vì quyền bình đẳng, tiến bộ của phụ nữ và hòa bình thế giới.

Quyết tâm giải phóng phụ nữ, đòi quyền bình đẳng và tiến bộ cho phụ nữ được thể hiện rõ qua phong trào nữ quyền thế giới, cụ thể là ba làn sóng nữ quyền chính. Làn sóng nữ quyền thứ nhất xuất hiện ở các nước công nghiệp phát triển, có liên quan chặt chẽ tới phong trào đòi quyền tự do cho phụ nữ ở Mỹ và Châu Âu. Đây là làn sóng nữ quyền tự do (liberal feminism) chủ yếu tập trung vào việc đòi quyền phụ nữ cho phụ nữ, thúc đẩy sự tiếp cận và các cơ hội bình đẳng cho phụ nữ. Phong trào này tiếp tục gây tiếng vang và ảnh hưởng tới phòng trào nữ quyền ở các nước phương Tây và phương Đông trong suốt thế kỷ 20.

Làn sóng nữ quyền thứ hai có nguồn gốc từ phòng trào giải phóng phụ nữ của phái nữ quyền cấp tiến (radical feminism) vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của thế kỷ 20. Làn sóng nữ quyền thứ hai chỉ trích chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, đấu tranh kêu gọi quyền lợi cho những nhóm người chịu thiệt thòi như công nhân lao động, người da màu, phụ nữ, những người đồng tính. Phụ nữ thuộc làn sóng nữ quyền thứ hai đã tích cực tham gia vào các cuộc diễu hành, biểu tình đòi quyền lợi, điển hình là các cuộc biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam, các cuộc biểu tình của sinh viên, biểu tình ủng hộ người đồng tính.

Làn sóng nữ quyền thứ ba xuất hiện vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do thông tin và chính trị toàn cầu. Phụ nữ tự tin rằng họ là những nhân tố xã hội tích cực, có khả năng, mạnh mẽ và quyết đoán. Họ tin tưởng vào một xã hội có nhiều cơ hội phát triển và ít phân biệt giới tính. Làn sóng nữ quyền thứ ba có liên quan chặt chẽ tới các tác động của toàn cầu hóa và sự phân bổ quyền lực tới phát triển quyền và sự tiến bộ của phụ nữ, phản ánh sự đa dạng hóa các mối quan tâm và quan điểm của phụ nữ trong thời đại mới. Làn sóng nữ quyền thứ ba cũng kêu gọi xây dựng một liên minh đoàn kết giữa các phong trào nữ quyền khác nhau, mở rộng thuyết đồng tính ra nhiều mảng như đồng tính nam, đồng tính nữ, chuyển đổi giới tính.

Trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, phong trào nữ quyền thế giới vẫn liên tục phát triển, hướng tới một mục tiêu chung là giành quyền bình đẳng cho phụ nữ, lên án mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em. Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) khẳng định rằng phân biệt đối xử với phụ nữ là vi phạm các nguyên tắc về quyền bình đẳng và xúc phạm tới nhân phẩm con người, là trở ngại lớn cho phụ nữ trong việc tham gia bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực phát triển của xã hội, ngăn cản sự phát triển bền vững của cá nhân phụ nữ, gia đình và cộng đồng.

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 hàng năm không chỉ là ngày dành riêng cho nữ giới. Đây cũng chính là cơ hội để xã hội, đặc biệt là nam giới, ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ trong các lĩnh vực và đảm bảo quyền lợi hợp pháp và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ.

Bàn về ngoại cảm

Có một số người tìm cách lý giải về sự tồn tại của linh hồn hay khả năng ngoại cảm, nhưng sự thật thì linh hồn hay khả năng ngoại cảm hoàn toàn không tôn tại. Do vậy những người bảo vệ quan điểm này đã cố gắng tìm cách chứng minh sự tồn tại của linh hồn hay khả năng ngoại cảm của một số người đặc biệt, có lẽ sau phóng sự vạch trần bộ mặt của nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ của VTV thực hiện thì báo chí cũng như các trang blog cá nhân, mạng xã hội ở Việt Nam những tuần qua tốn nhiều giấy mực cho chủ đề nhà ngoại cảm này. Dễ dàng thấy trên mạng xã hội facebook hoặc các blog cá nhân đa số người dùng đồng tình với quan điểm của VTV, cũng có những người phản đối phóng sự của VTV và họ tìm cách lý giải sự tồn tại của linh hồn hay khả năng ngoại cảm. Quan sát những luận điểm mà những người khẳng định có sự tồn tại linh hồn, khả năng ngoại cảm đưa ra mình thấy dường như họ đang đuối lý những luận điểm họ đưa đưa ra chủ yếu đánh vào tâm lý hướng thiện của con người nhằm dẫn dắt con người tin vào những điều siêu hình mà họ cho rằng nó có tồn tại. Ví dụ điển hình gần đây sự kiện thẩm mỹ viện Cát Tường ném xác nạn nhân xuống sông hồng đến nay hơn 10 ngày chưa tìm được xác, đặt vấn đề nhờ nhà ngoại cảm tìm xác thì nhận được lý giải kiểu xác suất, muốn tìm được xác phải nhờ cơ duyên của nhà ngoại cảm (chi tiết xem tại đây). Một ví dụ khác mà mình nghĩ duy chỉ có ở Việt Nam đó là Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trò chuyện được với vua Quan Trung (1953 – 1792), từ cuộc hội thoại của bà Hằng với vua Quang Trung các nhà nghiên cứu đã quay về lịch sử thì thấy nhiều điều ẩn khúc sai sự thật lịch sử chi tiết xem tại đây và còn nhiều nhiều ví dụ khác về các lý giải cho thấy sự đuối lý của những người cho rằng có sự tồn tại của linh hồn và khả năng ngoại cảm hiện nay ở Việt Nam dễ dàng tìm thấy trên Google.

Ai cũng có quyền tự do suy nghĩ, tin hay không tin đấy là chuyện của mỗi người tuy nhiên một tổ chức nhà nước không thể tin vào những cái không tồn tại mà được lý giải một cách vô lý như vậy, tận dụng tính hướng thiện của quần chúng nhằm tạo lòng tin vào những thứ hoàn toàn không tồn tại và sai sự thật để dẫn dắt, lãnh đạo quần chúng như vậy cho thấy sự yếu đuối trong năng lực lãnh đạo của một tổ chức xã hội. Cá nhân mình không đồng tình với chính phủ Việt Nam dùng tiền thuế của dân trong đó có mình cho thành lập trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người hoạt động chủ yếu là phát hiện nhà ngoại cảm để phục vụ việc tìm hài cốt liệt sĩ làm an lòng những gia đình liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh. Việc tìm hài cốt liệt sĩ đã hy sinh vì tổ quốc là cần thiết nhưng không vì thể mà bằng mọi giá để rồi người thân phải thờ những xương động vật, những nghĩa trang bị bôi nhọ bởi sản phẩm của những nhà ngoại cảm như vậy.

Ngô Thông

Văn hóa – Thù vặt

Đọc bài Ca sĩ Trọng Tấn: Mong công chúng tha thứ trên tuổi trẻ ngày 22/7/2012 mình thấy cách hành xử của mấy vị Bộ VH-TT&DL sao giống trẻ con quá vậy? Phản ứng của Bộ giống mấy đứa con nít hay thù vặt với nhau, trong khi đây là cái bộ mà từ đầu tiên trong tên gọi của Bộ gọi là Văn Hóa. Chẳng lẽ hiện tượng thù vặt của con nít nâng lên tầm của Chính Phủ?. Bữa nay dân là 86 triệu rồi mà nước hơn bốn nghìn năm nay mà còn lối hành xử cấp Bộ vẫn trẻ con vậy thì còn lâu Việt Nam mới sánh vai với các cường quốc năm châu.

Một sự kiện chính trị của quốc gia như vậy mà các vị làm như sinh viên tổ chức sự kiện, ngẩu hứng lý qua cầu quá, thế còn gọi điện về đề nghị Bí thư Ninh Bình tác động vào Công An Tỉnh càng cho thấy công tác tổ chức như vậy thể hiện nhiều yếu kém.

 

Ca sĩ Trọng Tấn: Mong công chúng tha thứ

TT – Một ngày sau chuỗi sự kiện tại Lào, giải trình với Học viện Âm nhạc quốc gia VN, Cục Nghệ thuật biểu diễn về việc bỏ về nước trong chương trình giao lưu Việt – Lào, ca sĩ Trọng Tấn dành cho Tuổi Trẻ một cuộc nói chuyện.

>> Yêu cầu tạm cấm Trọng Tấn và Anh Thơ biểu diễn

 

Ca sĩ Trọng Tấn – Ảnh: T.T.D.

 

Giọng ca nhạc đỏ hàng đầu chia sẻ:

– Tôi chỉ mong công chúng hiểu, thông cảm và tha thứ. Hành động của tôi dù có lý do gì thì hoàn toàn không phải là quay lưng với lợi ích đất nước.

Ngay từ đầu tôi cũng xác định đó là nhiệm vụ chính trị của bộ, nghĩa là tôi ý thức rất cao việc đó dù rằng mình không phải là người nằm trong danh sách chính thức ngay từ đầu. Việc này tôi đi thay thầy Quang Thọ vì thầy bị tai nạn gãy tay. Nếu bình thường tôi có thể từ chối để nhà trường thu xếp người khác, nhưng với trách nhiệm và bằng cả sự trân trọng đối với thầy thì tôi quyết định đi thay.

Giám đốc và phó giám đốc Học viện Âm nhạc quốc gia cũng gọi điện nói: Em cố gắng giúp trường cũng như thầy Thọ biểu diễn tối 17-7 thôi. Đó là lời đề nghị chính thức của lãnh đạo học viện. Sau đó học viện gửi công văn lên bộ, hai bên hiểu công văn đến đâu thì tôi không biết nhưng tôi biết quyết định cử đi ngày 16 đến ngày 18-7 thì về. Tôi cũng phải chủ động đổi vé để về ngày 18-7.

Tôi có khó khăn riêng là đã nhận lo toàn bộ chương trình ngày 19-7 của Công an tỉnh Ninh Bình kỷ niệm ngành công an nhân dân. Mà làm việc với Công an Ninh Bình thì đã từ trước đó hàng tháng rồi. Dĩ nhiên đó là việc của cá nhân thôi, nghệ sĩ ngoài việc nhà nước thì cũng có những công việc bên ngoài mới có thể sống được bằng nghề. Để tham gia chuyến lưu diễn ở Lào, tôi cũng đã phải xin hủy show của nhạc sĩ Phú Quang tối 16-7. Tối 17-7, tôi có lịch biểu diễn tại Vĩnh Phúc và cũng phải thu xếp nhờ ca sĩ Việt Hoàn đi thay.

Hôm diễn chính thức tối 17-7 diễn ra rất thành công và tôi nghĩ mình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lúc đó tôi cũng chuẩn bị tinh thần để về Việt Nam thì sáng 18-7, bộ có cử một số người trong đoàn công tác làm việc. Thư ký bộ trưởng chuyển lời bộ trưởng đề nghị hai ca sĩ Trọng Tấn và Anh Thơ ở lại vào tối 18-7 biểu diễn trong tiệc chiêu đãi của Đại sứ quán Việt Nam tại Lào. Việc này quá gấp gáp. Sự việc phát sinh thêm khiến tôi rất khó xử. Nếu như trong nước thì rất dễ sắp xếp vì có nhiều chuyến bay. Đầu tiên tôi đưa ra phương án hay là tôi với Anh Thơ diễn từ 18g đến 19g30 rồi sẽ bay về Việt Nam trong chuyến bay cuối lúc 20g05. Tuy nhiên, những người gặp tôi cũng không dám quyết vì sợ nhỡ bộ trưởng đề nghị biểu diễn vào lúc ăn tiệc thì không kịp ra máy bay.

Tôi nghĩ đã hoàn thành nhiệm vụ chính rồi, và cũng nói với họ là: Thôi thông cảm cho bọn em, việc ở Ninh Bình cũng rất quan trọng. Tôi gọi về cho Công an tỉnh Ninh Bình thương lượng và họ cũng rất gay gắt, khó khăn. Tuy nhiên, tôi cũng không có một bằng chứng nào để chứng minh những đối thoại trao đổi đó. Trong hợp đồng ghi rõ nếu có khó khăn gì thì hai bên sẽ gặp nhau thương lượng trước một tuần. Lúc đó tôi lại chỉ có thời gian từ 9g sáng đến 13g chiều, thời gian quá gấp gáp. Anh Tân – thư ký của bộ trưởng – cũng đã nói chuyện với Công an Ninh Bình và họ cũng chưa thông cảm. Bộ cũng đã nhờ bí thư tỉnh Ninh Bình tác động vào. Sau đó, tôi có gọi lại cho Công an Ninh Bình thì họ nói là bí thư không can thiệp việc này. Cuối cùng thời gian quá ngắn và tôi đã quyết định về.

Thật sự về mặt chính trị lúc đó tôi cũng chưa ý thức được hết. Tôi đã đưa ra một quyết định vội vã. Công điện đã nâng tầm việc này lên thành tôi đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích quốc gia. Mình phải gánh lợi ích quốc gia cho toàn bộ chuyện đó thì quá lớn. Trong giải trình, tôi cũng mong bộ xem xét công và tội để giảm nhẹ kỷ luật. Đây cũng là kinh nghiệm xương máu trong nghề diễn của tôi.

HÀ HƯƠNG thực hiện

 

Ninh Bình không thúc giục hai nghệ sĩ về hát

Trao đổi với Tuổi Trẻ sáng qua 21-7, Phó chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình Trần Hữu Bình cho biết: “Tôi theo dõi vụ việc qua báo chí và thật lòng rất buồn cho cả hai nghệ sĩ và cả tên tuổi của Ninh Bình – vô tình bị làm bên thứ ba cho một câu chuyện không hay.

Tôi cũng biết là do có thêm một đêm diễn ở Vientiane, Bộ VH-TT&DL đã chuyển lời nhờ Tỉnh ủy can thiệp với Công an tỉnh, không buộc hai nghệ sĩ phải về hát ngày 19-7 theo hợp đồng đã ký. Giám đốc Công an tỉnh cũng đã vui vẻ chấp nhận thay đổi ca sĩ theo bố trí của Học viện Âm nhạc quốc gia VN, dù không kịp thay đổi tên trên giấy mời vì quá gấp. Chính vì thế, sự việc như báo chí đã nêu khiến tôi rất ngạc nhiên. Ninh Bình không hề thúc ép nghệ sĩ phải về hát, và không ai có thể trách các nghệ sĩ nếu họ ở lại. Rõ ràng, dù là biểu diễn ngoài chương trình chính thức nhưng “phương diện quốc gia” phải được đặt cao hơn tất cả.

Theo tôi, một nghệ sĩ được đánh giá rất cao cả về tài năng và đạo đức như Trọng Tấn chắc đã có một yếu tố tâm lý bất ngờ hay một hiểu lầm nào đó mới hành xử như vậy, chứ bình thường trong tất cả những sự kiện khác mà tôi từng tổ chức và chứng kiến (trước khi về Ninh Bình, ông Bình là giám đốc Sở Du lịch Hà Nội), anh ấy rất chừng mực và điềm đạm, ý thức rất rõ vai trò và danh dự của mình. Thậm chí, nhiều lần xong sự kiện chính (với thù lao không hề cao), đến khi vào tiệc, được gợi ý hát dù với thù lao rất cao, Trọng Tấn cũng không bao giờ hát.

Vì thế, tôi mong sự việc vừa rồi chỉ dừng ở mức độ sự cố, hai nghệ sĩ đã nhận ra sai lầm của mình và đã phải trả giá bằng sự thất vọng của người hâm mộ, thế là quá đủ. Có lẽ không nên dùng đến biện pháp hành chính làm gì”.

THU HÀ ghi

Yêu cầu tạm cấm Trọng Tấn và Anh Thơ biểu diễn

TTO – Ông Nguyễn Văn Tình – Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VH-TT&DL) vừa ký Công điện gửi các cơ quan chức năng thuộc Bộ, yêu cầu Cục Nghệ thuật biểu diễn ra quyết định tạm cấm Anh Thơ và Trọng Tấn tham gia các chương trình biểu diễn nghệ thuật trong và ngoài nước.

 

Ca sĩ Trọng Tấn và Anh Thơ – Ảnh: Gia Tiến

 

Thừa ủy quyền của Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL, công điện gửi từ Vientiane (Lào) thông báo ý kiến về việc hai nghệ sĩ Anh Thơ và Trọng Tấn – giảng viên Học viện Âm nhạc Quốc gia VN – tự ý bỏ về nước, không tham gia chương trình nghệ thuật chào mừng Năm Đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào.  Chương trình này có sự tham gia của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội nước CHDCND Lào và lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam và Lào, được tổ chức ngày 18-7 tại thủ đô Vientiane.

Ngoài yêu cầu tạm cấm hai nghệ sĩ Anh Thơ và Trọng Tấn biểu diễn các chương trình trong lẫn ngoài nước, công điện nêu rõ: Giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia VN yêu cầu các nghệ sĩ Anh Thơ và Trọng Tấn kiểm điểm giải trình, đồng thời áp dụng những hình thức kỷ luật nghiêm khắc, kể cả buộc tạm nghỉ việc kể từ ngày 18-7 để kiểm điểm làm rõ tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật của người nghệ sĩ, người giảng viên và ý thức công dân đối với nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.

Trả lời Tuổi Trẻ từ Vientiane chiều 20-7, ông Nguyễn Văn Tình cho biết: “Chúng tôi rất buồn khi phải ký công văn này, nhưng đó là một việc cần làm, để cảnh báo tinh thần công dân và ý thức chấp hành kỷ luật của các nghệ sĩ, và cũng để đảm bảo sự công bằng giữa các nghệ sĩ trong và ngoài biên chế Nhà nước”.

THU HÀ – HÀ HƯƠNG

Âm nhạc: Cái chung, cái riêng.

Âm nhạc: Cái chung, cái riêng.

Cập nhật ngày 21/04/2011

Talk&Think – Chia sẽ và Suy ngẫm là một diễn đàn chia sẽ tri thức phi lợi nhuận do Tổ chức Giáo dục PACE, Dự án Sách Hay, Chương trình Hạt giống Lãnh đạo IPL và Cổng tri thức doanhtri.cn đồng phối hợp thực hiện.

Talk&Think lần này là chia sẽ của nhạc sĩ Quốc Trung.

Một buổi nói chuyện trong vòng 2h đồng hồ nhưng giúp mình nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn về âm nhạc của Việt Nam hiện nay. Biết cảm nhận tính nghệ thuật của âm nhạc ở chổ nào, không đơn thuần là lời bài hát hay là người biểu diễn bởi lẽ cái lời chỉ là cảm súc của tác giả và người biểu diễn là “trang phục” cho bài hát mà thôi.
Có được cái riêng tự nhiên cái chung xuất hiện quan điểm này xuyên suốt buổi nói chuyện của nhạc sĩ. Người nhạc sĩ lớn của Việt Nam là người nhạc sĩ đó phải được quốc tế công nhận. Khi quốc tế công nhận và đi lưu diễn thì lúc đó họ xem là xem những cái riêng của mình, trong đó tự nhiên nó sẽ tót lên cái bản sắc của quốc gia, dân tộc đó, bởi lẽ nếu khán giả muốn nghe nhạc Jazz thì chúng ta không tài nào biểu diễn bằng những nhạc sĩ đến từ Mỹ hay các nước Mỹ La Tinh. Chúng ta biểu diễn nhạc Jazz mà trong đó có những nét riêng của chúng ta, những nét riêng đó sẽ mang âm hưởng của dân tộc.
Một sáng tạo riêng điển hình của nhạc sĩ là “Album đường xa vạn dặm” quả thật nghe hoài mà hok chán, mặt dù cá nhân mình hok thích ca trù hay xẩm nhưng qua lăng kính âm nhạc của nhạc sĩ thì nó dễ đi vào lòng người hơn trên nền nhạc word mussic hiện đại và sâu lắng.
Cảm ơn chương trình Talk&Think đã mang lại cho mình chương trình đúng như cái tên của nó được chia sẽ và sau đó gợi cho mình nhiều suy ngẫm.
Ngô Thông

Album đường xa vạn dặm

 

Người đàn ông hoàn hảo.

Người đàn ông hoàn hảo.

Bài viết được đăng trên facebook của Vương Hữu Hùng

 

Người đàn ông hoàn hảo ở thế kỷ 21 phải là một chiến binh ở nơi làm việc, một chàng tinh tế, gợi cảm trong cách ăn mặc và khéo léo, đảm đương trong nấu nướng, trang trí nhà cửa, một con ngựa chiến trên giường, một  anh chàng lực lưỡng trong phòng tập  thể  hình, một người cha hoàn hảo, một người bạn thích nghe phụ nữ tâm sự về rắc rối của họ và một con người nhạy cảm đến mức sẽ khóc khi xem ” Romeo  và Juliet”. Đáng tiếc thay cho đa số phụ  nữ, kiểu đàn ông này thường đã có bạn trai!

Truyền thông đã mang đến cho cả hai phái những kỳ vọng hão huyền trong các mối quan hệ. không ai hoàn hảo, và do đó, việc cố gắng tìm kiếm một người như vậy, hay cố gắng thay đổi bạn đời của mình, chính là con đường dẫn đến thảm họa.

Hiểu được những động cơ sâu xa của chính chúng ta chính là chìa khóa để có  được mối  quan hệ hạnh phúc.(Barbara Pease)

Không ai mong trở thành Bà mẹ Anh hùng!

Đọc xong bài báo mà mình không khỏi chạnh lòng, đọc những dòng tâm sự của tác giả liên tưởng về những Người Mẹ ở thôn mình cảm thấy xót xa quá, đau đớn quá. Tại địa phương mình biết Mẹ Phầu(không biết chính xác nghe mọi người gọi vậy), dường như hoàn cảnh thật quạnh quẽ, trong căn nhà lạnh lẽo thấy có đứa cháu trai ở sớm hôm với Mẹ, duy chỉ bàn thợ trong nhà Mẹ lúc nào cũng nguy ngút khói hương.

Rồi các Mẹ cũng về với chồng con, nhưng khoản thời gian ngắn ngủi còn lại của mẹ thật cô quạnh, mẹ không cần những nhà cao cửa rộng đâu, chỉ cái chõng với cái chỗ để Mẹ đặt lư hương để hằng ngày Mẹ thắp những nén nhang tưởng nhớ những người đã khuất là đủ rồi. Qua Mẹ Phầu mình thấy hằng ngày Mẹ muốn có những đứa con nít quay quần, ngay trước nhà Mẹ một bà Cụ cũng độ tuổi Mẹ hằng ngày con cháu quay quần vui vẻ, những lúc như vậy nhìn lại thì Mẹ chỉ nhìn lên những khung hình và xoáy ống trầu ngồi nhai một mình thôi.

Qua các hoạt động công tác xã hội, thăm các mái ấm, nhà mở tịnh xá ở trường ĐHBK, thì mình nghĩ các trường ĐH cần nhân rộng điều kiện nhận bằng tốt nghiệp thì sinh viên phải có 15 ngày Công tác Xã hội

Ngô Thông

“Không ai mong trở thành Bà mẹ Anh hùng!”

“Tôi có thể khẳng định không có bất kỳ ai trên thế giới cầu mong mình được nhận danh hiệu Bà mẹ Anh hùng, bởi đó chắc chắn là những người phụ nữ đau khổ nhất trần gian. Nhưng lịch sử Việt Nam đã tạo ra những người mẹ như vậy”.

Kỳ 1: Nhà báo Mỹ ‘góp nhặt’ nỗi đau chiến tranh Việt Nam

Kỳ 2: Sao người Việt Nam không ghét người Mỹ?

Nỗi đau người ở lạiNếu hỏi đối tượng nào phù hợp nhất với dự án ‘Những người phụ nữ chịu ảnh hưởng (mất mát) từ chiến tranh’ ở Việt Nam, chắc chắn người đầu tiên chúng tôi phải tìm đến là các Bà mẹ Anh hùng.

Không cần thêm bất kỳ lời diễn giải nào, ‘tiêu chí’ để trở thành Bà mẹ Anh hùng đã đủ làm đau mọi trái tim:

– Có hai con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là liệt sĩ;

– Có hai con mà cả hai con là liệt sĩ, hoặc chỉ có một con mà người đó là liệt sĩ;

– Có ba con trở lên là liệt sĩ;

– Có một con là liệt sĩ, chồng và bản thân là liệt sĩ.

Những người như mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam mất 9 con, mẹ Nguyễn Thị Dương ở Hà Nội mất 6 con, mẹ Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận mất 8 con là liệt sĩ, mẹ Trần Thị Mít ở Quảng Trị mất 9 con, mẹ Nguyễn Thị Rành ở huyện Củ Chi, TP HCM mất 8 con, mẹ Phạm Thị Khánh ở Kiên Giang mất 7 con trai (bà có 8 con), “Bà mẹ Gio Linh” Lê Thị Cháu ở làng Mai Xá (Gio Mai, Gio Linh, Quảng Trị) phải quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con bị giặc Pháp chặt rồi bêu giữa chợ về khâm liệm, mai táng… còn mất mát nào to lớn hơn thế nữa.

Chân dung các Bà mẹ Anh hùng tại Bảo tàng Phụ nữ, Ảnh Hoàng Hường

Sự đơn côi, đau đớn của những người phụ nữ ở lại, chứng kiến lần lượt chồng con  mình ra đi là minh chứng rõ rệt nhất sự ‘bị ảnh hưởng’ (being affected) từ chiến tranh, như mô tả dự án của Marissa.

Chính vì thế, khi nghe tôi nói qua về Bà mẹ Anh hùng, nữ ký giả khẳng định luôn đó là đối tượng đầu tiên mà bà muốn tìm đến.

Khi chúng tôi tìm đến mẹ Anh hùng Nguyễn Thị Thông ở 90 Hàng Trống, Hà Nội, hình ảnh một cụ già 99 tuổi (cụ Thông sinh năm 1913) trèo chiếc cầu thang từ gác xép ngôi nhà rộng chừng 2m vuông xuống tiếp khách làm tôi không khỏi xót xa, dẫu biết rằng đó là không gian sống rất đỗi bình thường trong các khu phố cổ Hà Nội.

Mời mẹ ra vỉa hè ngồi nói chuyện, mẹ chỉ nhớ duy nhất tên mình và tên con trai cùng vài thông tin đơn giản nhất. Ký ức của mẹ chỉ dừng lại đúng năm người con trai duy nhất Nguyễn Văn Nguyên của mẹ hy sinh năm 1968. Những thông tin khác mẹ không nhớ, hoặc không muốn nhớ, hoặc nỗi đớn đau trống vắng đã lấy hết quãng đời còn lại của mẹ.

Mẹ Anh hùng Nguyễn Thị Nghị và con trai Nguyễn Khắc Hận, Ảnh Hoàng Hường

“Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ…” lời bài hát quen thuộc, nhưng với Mẹ anh hùng Nguyễn Thị Nghị, tại tổ 16 phường Phúc Lợi, quận Long Biên. Mẹ Nghị sinh năm 1921. Cả ba lần mẹ Nghị tiễn con đi, cả ba lần mẹ không được đón con về. Ba người con trai của mẹ lần lượt nằm lại chiến trường, vĩnh viễn để lại cho mẹ nỗi đau cắt lòng.

Giờ mẹ sống với vợ chồng người con trai thứ tư, anh Nguyễn Khắc Hận và chị Ngô Thị Hiển. So với nhiều Mẹ Anh hùng khác, mẹ Nghị vẫn là người may mắn và hạnh phúc hơn vì còn có con kề cận chăm sóc. Nhiều Mẹ anh hùng khác phải sống cảnh quạnh quẽ khi về già vì chồng con các mẹ đã ‘ra đi’ hết.

Tuổi già cô quạnh

Dừng lại hồi lâu nhìn mẹ Nguyễn Thị Thông bên mâm cơm cô quạnh trong căn phòng 2m vuông, tôi bước nhanh ra ngoài phố để khỏi cảm thấy quá nặng nề. Một lúc lâu sau, Marissa Roth mới đi ra. Suốt chặng đường về, Marissa chẳng nói gì, chỉ yên lặng nhìn đường phố qua cửa kính taxi.

Tôi còn nhớ cách đây không lâu, khi dự án tượng đài Bà mẹ Anh hùng 420 tỷ được khởi công ở Quảng Nam, sau khi bị công luận phản ứng dữ dội đã phải dừng lại. Cuộc sống của các Bà mẹ Anh hùng được nhìn nhận lại rõ hơn, và không khỏi khiến người người xót xa.

Bà mẹ Anh hùng là danh hiệu được ban hành theo Pháp lệnh ngày 29 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Từ lúc đó đến khi các bà mẹ được lựa chọn vinh danh từ khoảng năm 1995 đến nay. Rất nhiều người đã không còn sống để được vinh danh, và hầu hết các mẹ đều cô đơn. Những người vợ liệt sĩ tái giá, hoặc có thêm con, hoặc không có đủ 3 người con là liệt sĩ không thuộc nhóm này.

Dù được hưởng chính sách của Nhà nước, được sự thăm nom của các chính quyền, đoàn thể… nhưng nhiều mẹ đều có mẫu số chung là một tuổi già quạnh quẽ.

Nhân dịp chuyện tượng đài ồn ã, nhà báo Trầm Hương của tờ Sài Gòn Tiếp Thị từng đưa ra những câu chuyện buồn với hình ảnh Mẹ anh hùng phải ở ngoài bụi tre vì căn nhà tình nghĩa của mẹ đã quá xập xệ, sắp đổ; người mẹ khác mù lòa phài dò dẫm trong căn nhà trống hoác với sự giúp đỡ của người cháu họ…

Bữa cơm cô quạnh của mẹ Nguyễn Thị Thông, Ảnh Hoàng Hường

Cả đất nước có 44.253 Bà  mẹ Anh hùng, hơn 40 nghìn người phụ nữ đớn đau bên bàn thờ chồng con.

‘Những người đàn ông tạo ra chiến tranh, nhưng phụ nữ là người bị bỏ lại phía sau chịu hậu quả’, Marissa Roth viết đề tựa dự án của bà như vậy, có vẻ như nó chính là lời tựa chuẩn xác nhất về các Bà mẹ Anh hùng.

Trước đó, tôi đã từng nghe một nhà báo nước ngoài chia sẻ: “Tôi có thể khẳng định không có bất kỳ ai trên thế giới cầu mong mình được nhận danh hiệu Bà mẹ Anh hùng, bởi đó chắc chắn là những người phụ nữ đau khổ nhất trần gian. Nhưng lịch sử Việt Nam đã tạo ra những người mẹ như vậy“.

Phải rồi, chắc chắn không có người phụ nữ nào trên đời này sinh con ra để rồi phải lần lượt nhìn những đứa con mình chết. Cũng chẳng có đứa trẻ nào sinh ra để làm anh hùng, chỉ là thời thế tạo ra những nhân vật đó.

Và ở Việt Nam, đất nước bị vùi dập bao nhiêu năm vì chiến tranh, đã sinh ra những người mẹ như vậy. Những người mẹ, người phụ nữ ấy, cao cả biết bao, vĩ đại biết bao; nhưng cũng đau đớn biết bao, đáng thương biết chừng nào. Chiến tranh đã đặt lên vai những người phụ nữ thuần hậu danh hiệu lớn lao nhưng cũng vô cùng đau đớn ấy.

Chắc chắn không có bất kỳ người phụ nữ nào trên đời này cầu mong mình trở thành Bà mẹ Anh hùng, tôi đồng ý!

Hoàng Hường

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

“Hôm qua em đi tỉnh về, Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” Nguyễn Bính than rằng ở Tỉnh không có hương đồng gió nội đã bào mòn cái đẹp của cô gái, bởi “Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi”. Ở đấy chúng ta cần phân biệt thế nào là “hương đồng”, thế nào là “nước hoa”; thế nào là “quạt máy”, thế nào là “gió quê”, và chúng ta thấy cái khổ của công nghiệp – “khuy bấm” tiện dụng nhưng ít an toàn. Đô thị, tưởng là sành điệu, thế mà “nếu có cô gái, phụ nữ nào tự tin đến mức không dùng nước hoa thì thật là quá kiêu ngạo”. Nay dầu ta chưa có nhiều tiền, chưa mua được nước hoa để dùng thường xuyên nên vẫn còn “quá kiêu ngạo”, đã được Nguyễn Bính chỉ ra rằng “sự kiêu ngạo mới bay đi ít nhiều” ở một số cô gái “khuy bấm” thôi. Tiếc quá, Nguyễn Bính không để lại cho con trai, đàn ông mấy câu thơ – kể cũng bất công.

Nhãn tiền

Nhãn tiền

Mặt được nhìn thành thể hiện liên hoàn tai, mắt, miệng, gọi là “Nhãn tiền”. Nhãn tiền còn là giao tiếp nơi công cộng, mới gặp nhau.
Người xưa dạy “miếng trầu là đầu câu chuyện” nay không còn ăn trầu thì việc đầu câu chuyện phải là chào hỏi, cám ơn, xin lỗi. Việc này xứ ta tỏ ra tiết kiệm. Vì thế cần khắc phục để thể hiện lòng tử tế. Với người ít nói, nghe nhiều lời nói rõ ràng, giọng nói có hơi thở từ đáy phổi (ý đặt từ trái tim), có hồn trong từng lời nói – dễ giàu to. Người nói lời đưa từ cửa miệng, ông cha ta gọi là “miệng lưỡi” dễ thất bại.
Để có sự thành công cần rèn luyện tiếng nói, nói rõ lời, nói rõ câu, nói để người khác hiểu. Chào hỏi, xin lỗi, cám ơn thì phải chú trọng cái tai của người đói diện; ta thấy vì thế chúng ta biết nhe răng, trợn mắt mà không có nước mắt. Cái tâm là nụ cười và nước mắt để phân biệt người và thú.
Chủ tịch Hô Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải “tín tâm” và “quyết tâm” thì ở đó tâm là tín, quyết là tầm. Người kém tầm không dám quyết, hoặc quyết chỉ có bại. Và xét đến cùng thì cũng Đức và Tài. Người có đức mới dụng được cái tài; có tài những thiếu đức khó mà dụng được nhân, chỉ lừa nhân thôi.
Mỗi gia đình chúng ta ở phố phải tự nhận tức về tâm người dân đô thị là gì và tầm của họ ở đâu? Đừng vội khinh người nhà quê. Lịch sử cho thấy cách mạng đa phần thành công từ những người nông dân, họ luôn có thế bền vững. Người thành thị quyết tâm cao nhưng tín tâm lại ít vì thế khó bền vững, dễ thất nghiệp. Người nông dân tín tâm cao những quyết tâm không bằng người thành thị nên nghèo… cứ thế liên hệ bản thân sẽ ra đáp số, hạnh phúc hay không gốc ở chỗ này.

Trích văn hóa giao tiếp – Vũ Gia Hiền

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

“Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”


Nguyễn Bính than rằng ở Tỉnh không có hương đồng gió nội đã bào mòn cái đẹp của cô gái, bởi “Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi”. Ở đấy chúng ta cần phân biệt thế nào là “hương đồng”, thế nào là “nước hoa”; thế nào là “quạt máy”, thế nào là “gió quê”, và chúng ta thấy cái khổ của công nghiệp – “khuy bấm” tiện dụng nhưng ít an toàn.
Đô thị, tưởng là sành điệu, thế mà “nếu có cô gái, phụ nữ nào tự tin đến mức không dùng nước hoa thì thật là quá kiêu ngạo”. Nay dầu ta chưa có nhiều tiền, chưa mua được nước hoa để dùng thường xuyên nên vẫn còn “quá kiêu ngạo”, đã được Nguyễn Bính chỉ ra rằng “sự kiêu ngạo mới bay đi ít nhiều” ở một số cô gái “khuy bấm” thôi. Tiếc quá, Nguyễn Bính không để lại cho con trai, đàn ông mấy câu thơ – kể cũng bất công.

Văn hóa là cái quái gì mà người ta hay nói đến nhỉ?

Văn hóa là cái quái gì mà người ta hay nói đến?

Gởi các bạn bài viết trên tuanvietnam của tác giả Thu Hà

Nguồn: Tuanvietnam

“Một nhà nước mạnh không phải là một nhà nước làm tất cả mọi việc; đó là một nhà nước biết tin, biết chia việc cho xã hội, biết cư xử với xã hội như với một người lớn.” – GS Cao Huy Thuần chia sẻ suy ngẫm sâu sắc về các giải pháp vực dậy văn hóa xã hội.

LTS: Sự xuống cấp về văn hóa xã hội hiện đang là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Các văn kiện quan trọng của Đảng đã chỉ rõ thực trạng này. Các nhân sĩ, trí thức và đông đảo người dân cũng đã lên tiếng không ít lần chia sẻ những suy nghĩ, giải pháp để vực dậy vốn văn hóa – xã hội.

Để góp thêm một góc nhìn, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với Giáo sư Cao Huy Thuần.

>> Hướng nào cho tái cấu trúc

“Mất văn hóa, dân tộc sẽ chỉ là những đứa con rơi”

Được biết, trong Bản Ý kiến của một số học giả Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài gửi cho các vị lãnh đạo mới đây có góp bàn về việc ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa xã hội. Là một trong những người tham gia góp ý kiến, hẳn giáo sư có nhiều suy nghĩ về vốn văn hóa xã hội, về cái xấu cái tốt trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam?

GS Cao Huy Thuần: Trong Bản Ý kiến gồm 40 trang, bàn về nhiều lĩnh vực, văn hóa chỉ chiếm hơn nửa trang. Đâu phải tình cờ! Ít nhất vì hai lý do. Một là vì nghẹn ngào. Chung quanh chúng ta, từ gia đình, trường học, xí nghiệp, công sở, đường sá, tôn miếu, đền đài, danh lam, thắng cảnh, sông, núi… đâu đâu cũng rơi lệ trước tình trạng mà dư luận gọi chung là “xuống cấp trầm trọng”. Xã hội và báo chí đã nói quá nhiều. Chúng tôi tóm gọn nửa trang là nghẹn lời. Nửa trang đó là một tiếng nấc.

Lý do thứ hai là tính bao quát của văn hóa. Văn hóa bao trùm khắp mọi lĩnh vực, ở đâu cũng có, từ khoa học, kỹ thuật cho đến nghệ thuật, văn chương, từ tinh thần cho đến vật chất, từ kinh tế cho đến chót vót chính trị trên cao. Cô không thể khoanh tròn một vùng nhất định, gọi đây là văn hóa, rồi tưởng tượng ra những biện pháp ngăn chận xuống cấp. Mọi mặt đều là văn hóa cả, cho nên biện pháp đề ra phải bao quát cả mọi mặt. Tôi xin nhắc lại sơ lược định nghĩa văn hóa của Unesco: “Văn hóa là toàn thể những nét riêng biệt, về tâm linh cũng như về vật chất, trí thức cũng như tình cảm, tạo thành đặc tính của một xã hội, bao gồm không những nghệ thuật và văn chương mà còn cả cách sống, những quyền căn bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập quán và tín ngưỡng”.

Ấy là tôi chưa nói đến lĩnh vực thiết thân nhất của mọi nguời dân hiện nay ở Việt nam, chị em ruột với văn hóa, cũng đang bị “xuống cấp trầm trọng”, cũng đang mang tai biến tật nguyền, cũng đang chờ thuốc thần của Hải Thượng Lãn Ông: giáo dục. Giáo dục của chúng ta đang rơi xuống vực thẳm, kéo văn hóa rơi theo. Không vớt được giáo dục, đừng hòng cứu nổi văn hóa. Do đó, bản ý kiến gộp chung văn hóa và giáo dục làm một, thử bốc vài thang thuốc Nam xem sinh khí có hồi phục được chút nào chăng.

“Xuống cấp” có nghĩa là “mất vốn”? Mất vốn dần dần? Mất dần dần cái tốt? Nhiễm dần dần cái xấu? Do đâu mà cái xấu chiếm dần cái tốt?

Cô dùng chữ “vốn”. Tôi e rằng phải dùng chữ “gia tài”. Văn hóa là kết quả của hàng ngàn năm lịch sử, là gia tài sống của cả dân tộc. Mất gia tài đó thì dân tộc chỉ còn là lũ con rơi vô thừa nhận. Nhưng tôi buồn mà không bi quan. Tôi không nghĩ chúng ta mất vốn. Để tránh đi vào lý thuyết khô khan, tôi xin nhắc lại một ví dụ cụ thể, một chi tiết nhỏ nhặt mà Tuần Việt Nam đã cùng chứng kiến với chúng tôi.

Hồi tháng 5 năm ngoái, Tuần Việt Nam hợp tác với trung tâm Liễu Quán để tổ chức một Tuần lễ văn hóa ở Huế, kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Con đường ven theo bờ sông Hương, chạy dài trước trung tâm Liễu Quán được trang trí bằng một vườn cảnh thôn quê, với rau xanh, quả ngọt, ớt, chanh, cây chuối, cây đu đủ, bẹ cải, bắp su, hoa lá đủ màu, rực rỡ. Suốt cả một tuần, khách viếng cảnh chen vai thích cánh trên đường hoa cả chục ngàn người, ban ngày cũng như ban đêm, không một cọng hoa bị ngắt, không một trái ớt bị mất. Tại sao vậy? Tại sao hoa đào mang về từ Nhật đã bị trộm cướp dẫm nát ở chỗ khác, mà ở chỗ này trái đu đủ vẫn ung dung nặng tình với gió sông Hương? Bài học không phải là chỗ này mất vốn, chỗ kia còn vốn.

Tôi nghĩ khác và đã nói với Tuần Việt Nam: ở đâu có tính tự giác thì ở đấy có văn hóa. Mà tính tự giác thì không phải do bản năng sợ mà có. Con đường hoa ấy có ai canh gác đâu? Tính tự giác là do nếp nhà, mà nếp nhà là kết quả từ ngàn năm giáo dục, giáo dục trong gia đình, giáo dục trong trường học, giáo dục trong sách giáo khoa vỡ lòng. Ngày nay, giáo dục ấy vắng bóng trong lĩnh vực công, nhưng xã hội còn giữ. Vậy thì hãy tin ở xã hội mà nhờ. Khi nhà nước biết xã hội tự quản được và tự quản tốt, hãy giao cho xã hội tự quản. Một nhà nước mạnh không phải là một nhà nước làm tất cả mọi việc; đó là một nhà nước biết tin, biết chia việc cho xã hội, biết cư xử với xã hội như với một người lớn, không phải như với một vị thành niên.

Ấy là chuyện nhỏ về một con đường thôi, nhưng đó là văn hóa, đó là chính sách văn hóa. Văn hóa là tương quan: tương quan giữa con người với chính mình, tương quan giữa con người với người khác, tương quan giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, với môi trường sống, với đất nước, tổ quốc. Văn hóa là một tổng thể những tương quan, như mọi sông, mọi suối, mọi rạch, mọi khe đều chảy vào biển. Nhà nước không thể thống lĩnh tất cả mọi tương quan, lại càng không thể thống lĩnh mọi tương quan với còi và dùi cui.

Hãy tạo điều kiện để trả luân lý về lại cho gia đình, đạo đức về lại cho trường học, truyền thống về lại cho tổ tiên, tự giác về lại cho xã hội, như thành phố Huế đã biết trả lại con đường hoa cho Liễu Quán, cho khách nhàn du. Xã hội thừa sức làm mọi chuyện chân thiện mỹ. Chỉ cần nhà nước sáng suốt và biết khiêm tốn đóng vai hỗ trợ khi cần thiết.

Giáo sư Cao Huy Thuần. Ảnh  Khánh  Linh

Ngạn ngữ Pháp nói: “La peur du gendarme est le début de la sagesse” (Biết sợ cảnh sát là bước đầu của khôn ngoan). Có đúng không ạ?

Đúng quá! Không có cảnh sát thì ngay xã hội cũng không còn, nói gì tự quản. Trên kia, tôi đã kể nhiều lĩnh vực thiết thân với văn hóa. Bây giờ tôi phải nhấn mạnh một lĩnh vực nữa, cũng máu mũ ruột thịt: luật pháp. Luật pháp là cây dùi cui có văn hóa. Nó gõ vào đầu cái xấu, cái ác, cái bất công, cái phi pháp, cái đáng trừng trị. Bản Ý kiến nói rõ: nó là tối thượng. Câu châm ngôn của nó là: “Cái gì mà luật không cấm thì làm được”. Điều đó cũng có nghĩa là: cái gì mà luật cấm thì đừng có làm, làm thì đi nhà mát. Một nước văn minh là một nước từ trên xuống dưới gối đầu trên châm ngôn ấy mà ngủ ngon. Còn nếu châm ngôn ấy không có thì người ngủ ngon trên gối là ông ba kẹ tham nhũng.

Nói lông bông như vậy để trả lời về “cái tốt” “cái xấu” của cô. Cái xấu thì luật pháp phải trừng trị. Cái tốt thì giáo dục phải vun trồng. Bắt đầu như vậy là bước đầu trả lại nhan sắc cho bộ mặt văn hóa Việt Nam. Luật pháp nghiêm minh, giáo dục chân chính: đó là điều kiện tất yếu tối thiểu.

Như vậy, luật pháp là phần việc của nhà nước, giáo dục là phần việc của xã hội?

Không hẳn! Không bao giờ hai xã hội ấy – xã hội chính trị và xã hội dân sự – đứng tách bạch ra hai bên, với biên giới rạch ròi ở giữa. Hai bên thông thương và hỗ trợ cho nhau. Cũng để tránh lý thuyết khô khan, tôi xin kể một điều tra khoa học được nói đến trong các sách về xã hội học cách đây khá lâu. Điều tra được tổ chức trên hai nhóm trẻ em cùng tuổi, một ở Pháp và một ở Mỹ.

Câu hỏi đặt ra là: “Nếu có một bọn côn đồ dọa đến đưổi các em, không cho đến chơi trong công viên của các em nữa, các em sẽ làm gì?” Nhóm trẻ em ở Pháp trả lời: đến tố cáo với cảnh sát và yêu cầu can thiệp. Nhóm trẻ em ở Mỹ trả lời: tự tổ chức canh gác để không cho bọn côn đồ đến chiếm. Điều tra đó được làm để xác nhận sự khác biệt giữa hai thái độ văn hóa, do lịch sử hai dân tộc tạo nên: một bên là văn hóa tập quyền, một bên là văn hóa dân chủ. Dù xã hội công dân ở Mỹ phát triển đến đâu đi nữa, trẻ em ở Mỹ cũng biết rằng nếu các em canh gác mà bọn côn đồ cứ đến chiếm như thường thì cảnh sát vẫn có đấy thôi. Nhà nước đâu có đứng khoanh tay làm ngơ!

Đồng tiền cũng biết tu chứ!

– Thưa giáo sư, sau 25 năm đổi mới và mở cửa hội nhập với thế giới, kinh tế khởi sắc hơn, sự tiếp cận của người dân đối với những cái mới cũng trở nên cởi mở hơn nhiều so với trước kia, thế mà văn hóa lại xuống cấp. Ông lý giải ra sao cho nghịch lý này?

Nếu kinh tế lên, mà tất cả cái khác đều xuống cấp, văn hóa lên cấp sao được? Nhưng để khỏi phải nói lại những điều tôi vừa nói, tôi nêu thêm ở đây một cách giải thích nữa, tất nhiên không phải là câu trả lời duy nhất. Tôi thường đọc sách Phật, thấy nói như thế này: người giàu sang quá thì khó tu, mà người nghèo khổ quá cũng vậy. Người nghèo khổ quá thì đêm ngày lo miếng cơm manh áo chưa xong, thì giờ tâm trí đâu nữa mà tu? Còn người giàu sang quá thì ham hưởng thụ, có tiền mua tiên (nữ) cũng được. Đức Phật nói thế là cốt khuyến khích nhà cầm quyền làm thế nào để nâng cao mực sống của người nghèo lên, giống như dân gian ta nói “có thực mới vực được đạo”. Ngài nói thế cũng cốt khuyên nhủ người giàu đừng tham vinh hoa phú quý.

Nhưng, từ nhận xét thông thường đó, ta thấy gì trong hiện trạng Việt Nam? Kinh tế có lên, mực sống có lên, đúng thế, nhưng công bằng xã hội quá chênh lệch. Người nghèo vẫn nghèo, càng nghèo, so với người giàu càng giàu, càng giàu sụ, giàu một cách không ai hiểu nỗi. Cách làm tiền và tiêu tiền của họ phung phí, vung vãi, tựa như tiền là giấy lộn, cũng không ai hiểu nỗi. Tiền ở đâu ra, chỉ mỗi câu hỏi ấy đủ rưới ảnh hưỏng xấu tràn lan trên xã hội, bởi vì tiền kiếm được bằng mồ hôi nước mắt, bằng giá trị lao động, chẳng thấm vào đâu so với tiền bất chính. Tiền này đi đến đâu, đạo đức suy đồi đến đó, giá trị nào cũng có thể đem ra mua bán.

Chắc cô sẽ hỏi: vậy giới trung lưu, tầng lớp xã hội “dễ tu” nhất ở giữa, thì sao? Có phải tất cả giá trị văn hóa nằm ở đấy không? Thì cô thấy đó, họ chạy theo đồng lương hụt hơi, làm chơi ăn thiệt, ăn lương có khác gì ăn ảo tưởng đâu. Vậy thì thượng, hạ, trung, ba giới đều chạy theo tiền, tiền là ma lực hút hết máu mủ sinh khí của mọi giới trong xã hội, là giá trị duy nhất đặt trên đầu. Văn hóa còn là cái gì? Bởi vậy, trong bản ý kiến, đồng lương là một vấn đề hàng đầu phải giải quyết, nếu không, đừng hòng cải cách đại học, trung học, tiểu học, mẫu giáo, giáo dục, đạo đức, và tất nhiên tham nhũng.

Đồng tiền có biết tu không?

Biết! Mà tu rất giỏi! Đắc đạo như chơi! Ở nước Mỹ, bao nhiêu nhà giàu trọng truyền thống tặng tiền cho các trường đại học để đại học Mỹ vẫn dẫn đầu văn hóa đại học trên thế giới. Gần đây, ai cũng biết, ông Bill Gates đem một phần tài sản để làm từ thiện. Nhiều người bắt chước ông. Ở Việt Nam, tôi bắt đầu có cảm tưởng các đại gia cũng muốn cho đồng tiền đi tu và tôi tán dương khuynh hướng này. Trung tâm văn hóa Liễu Quán được tái thiết là nhờ tiền hiến cúng âm thầm của một đại gia ẩn danh. Văn hóa bố thí của Phật giáo là con đường tu của đồng tiền biết sám hối. Chỉ tiếc một điều là ý nghĩa của bố thí chưa được hiểu rõ, cần phải biết rằng bố thí cho những công trình từ thiện, văn hóa, cũng phước đức như hiến tặng chùa chiền.

Càng mở cửa càng phải biết mình là aiThưa giáo sư, có nhiều ý kiến đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ mất văn hóa truyền thống, hoặc văn hóa ta bị xâm lăng, thậm chí bị nô dịch. Theo giáo sư, liệu có phải chúng ta đã quá trầm trọng hóa vấn đề?

Tôi chưa trả lời hết câu hỏi trên về sự cởi mở để tiếp thu cái mới. Bây giờ xin gộp với câu hỏi này thành một vấn đề chung. Với làn sóng toàn cầu hóa, không nền văn hóa nào có thể đóng được, kể cả Myanmar  trước đây. Dù muốn dù không, ai cũng phải mở. Vậy, ta tiếp thu cái mới gì khi mở? Cần phải phân biệt kỹ thuật với các yếu tố văn hóa khác. Kỹ thuật làm đồng bộ thế giới. Thang máy hiệu ấy ở Hà Nội cũng là thang máy ta đã bước vào ở Thái Lan, ở Phi, ở Singapore, ở Pháp. Cái máy tính tôi đang làm việc đây y chang máy của đồng nghiệp của tôi ở Mỹ. Cô nhân viên tính tiền ở các siêu thị cũng quẹt một cái trên mã vạch giống như các đồng nghiệp của cô bên Angola. Kỹ thuật là một hình thái của văn hóa, nhưng có đời sống ngắn. Có súng rồi thì chẳng ai dùng cung tên. Lái ô tô rồi thì chẳng ai du lịch bằng xe tứ mã.

Văn hóa thì ngược lại, dài dằng dặc hàng mấy nghìn năm. Kỹ thuật không cần biết phân chia đất đai, lãnh thổ, biên giới: nó nối kết nhân loại làm một. Tôi ở Pháp nấu cơm bằng nồi điện giống như gia đình tôi ở Việt Nam. Ngược lại, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thuyết…  thì có đất đai, lãnh thổ rành rọt. Ngày rằm, mồng một, sáng sớm trên các đường lộ Sài Gòn, xe thổ mộ chở đầy hoa; đố ai tìm ra được quang cảnh đó ở Nga, ở Ý.

Nhập cái mới về kỹ thuật tuy cũng thay đổi lối sống, nhưng ta không sống với kỹ thuật. Giữa tôi và cái máy tính trước mặt, có ai gần gũi hơn, có ai gần gũi hàng ngày như vậy? Nhưng nó với tôi đâu có tình cảm gắn bó gì. Đường sắt, xa lộ nối kết các nước châu Âu giăng đầy như mạng nhện, nhưng mấy chục năm rồi, ý thức châu Âu đã có đâu? Ta không sống trong kỹ thuật. Ta sống trong ngôn ngữ. Ta sống trong văn hóa. Ta yêu tiếng “em” ngọt lịm trên môi.

Kết luận: kỹ thuật có thể kết hợp thế giới, nối vòng tay lớn với cả nhân loại, nhưng văn hóa là miếng đất tự nhiên trên đó không thể không có đối chọi. Văn hóa là đối chọi, vì đó là nơi un đúc ra bản sắc, và không thể có bản sắc nếu không có một va chạm tối thiểu với một văn hóa khác. Dù ai nói gì đi nữa, đã nói văn hóa thì bao giờ cũng có một chúng ta chống lại chúng nó, giống như thông thường người ta định nghĩa tôi bằng cách phân biệt với cái không phải là tôi.

– Ấy là chỉ mới nói đến kỹ thuật, chưa động đến những hình thức xâm nhập văn hóa mà ai cũng thấy trên màn hình, qua phim ảnh, y phục, thời trang, hoặc sách báo…

Mạnh như nước Pháp mà cũng phải nói rõ: sản phẩm văn hóa không thể được xem như các sản phẩm tiêu thụ khác, phải được bảo vệ, phải có quy chế riêng, trước sự tấn công của các văn hóa mạnh hơn. Nước nào cũng phải bảo vệ văn hóa của mình, nếu không thì truyền thống mất hết, tổ tiên chết lại lần thứ hai. Càng mở cửa càng phải biết mình là gì, mình là ai.

– Thế nhưng khi mở cửa mình cũng hấp thụ được cái tốt chứ?

Đâu có phải bây giờ ta mới mở cửa? Ngay từ khi độc lập, ta đã mở cửa rồi. Ta mở cửa từ 1945. Ta mở cửa với Tuyên ngôn Độc lập. Hoành tráng! Phải là một Hồ Chí Minh mới mở cửa xuất chúng như thế. Sang sảng, tiếng của Chủ tịch vang dội quãng trường Ba Đình : “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ấy là tư tưởng của Jefferson, tư tưởng tiến bộ nhất của thế giới hồi đó.

Phải công bằng mà nói: ngày nay, ta cũng đã mở cửa đón hương thơm cỏ lạ của văn hóa thế giới tiến bộ đấy chứ. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chẳng phải toàn là những giá trị cao đẹp nhất của loài người đấy sao? Bản ý kiến tán dương tiêu chí đó, xác quyết: chừng ấy thôi mà thực hiện cho kỳ được, vậy là dân tộc ta có phước.

– Như vậy truyền thống không tương phản với hiện đại?

Hiện đại hóa truyền thống và truyền thống hóa hiện đại là thiên tài của Hồ Chí Minh. Nên học tập cái tài đó để đừng đánh mất truyền thống mà cũng đừng bảo thủ cái đáng vứt đi. Tôi trích thêm ở đây câu viết của một đại học giả Pháp, Lévi-Strauss, nhà nhân chủng học lừng danh thế giới, người cực lực bênh vực những nền văn minh mà ta gọi là sơ khai. “Văn minh bao hàm sự sống chung giữa các nền văn hóa phô bày ra với nhau đến mức tối đa những dị biệt của mình, và văn minh chính là sự sống chung ấy”. Phải biết bảo vệ dị biệt – nghĩa là bản sắc – cho đến tối đa, nhưng phải biết sống chung. Như vậy thì mới không văn hóa nào đô hộ được mình.

Hãy là những Nguyễn Trãi trong văn hóa

– Nhiều người trẻ cho biết họ lúng túng khi đi tìm đức tin và lý tưởng cho mình. Giáo sư suy nghĩ thế nào về thực tế này?

Tôi mong giới trẻ hãy đọc lại Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Nguyễn Trải ở Côn Sơn. Con người đẹp lạ lùng. Người trí thức tinh hoa của lịch sử, của văn hóa Việt Nam. Giữa một xã hội mất đạo đức, một xã hội chỉ biết có tiền, một xã hội mà kiến thức không ra ngoài ba chữ GDP, giới trẻ hãy đọc mấy câu đầu của Bình Ngô Đại Cáo để suy ngẫm: “Nước ta là một nước văn hiến”. Mới đại thắng xong, Nguyễn Trãi không mở đầu bằng phô trương sức mạnh quân sự mà bằng một định nghĩa không ngờ: đặt văn hóa lên giá trị thượng đỉnh. Nấc thang cao nhất để ta đứng trên đó mà cư xử ngang nhau với phương Bắc là nấc thang văn hóa. Cũng trên nấc thang đó, Nguyễn Trải khẳng định: văn hóa của ta khác văn hóa của ngươi. Cái rốn tư tưởng của ta nằm ở bên này bờ cõi của ta:

Nước non bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đó là tuyên ngôn độc lập văn hóa mà xin giới trẻ đừng quên. Bởi vì, chỉ mới mấy ngày nay thôi, ai đọc báo cũng biết thông tin đến từ Ủy ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ đã họp từ ngày 15 đến 18 tháng 10 và đã hạ quyết nghị biến Trung Quốc thành đại cường văn hóa. Họ nói: “Xí nghiệp kinh tế của ta đứng vào hàng 500 xí nghiệp đầu sổ của thế giới, nhưng ta không có một xí nghiệp văn hóa nào được thế giới biết đến. Người Mỹ chiếm thị trường của ta với những phim lấy hứng từ lịch sử Trung Quốc, nhưng Trung Quốc là đứng vào hàng số không về tính sáng tạo. Lợi tức của 500 xí nghiệp xuất bản Trung Quốc thấp hơn lợi tức của một nhà xuất bản Đức duy nhất”.

Trung Quốc đã có Viện Khổng Tử ở khắp nơi. Họ vung tiền ra để đưa tin trên thế giới. Sản phẩm văn hóa của họ tràn ngập các nước chung quanh. Thế vẫn chưa đủ. Bởi vì họ biết: văn hóa là sức mạnh mềm vô cùng hữu hiệu.

Hãy là Nguyễn Trãi, các bạn trẻ của tôi!

Cám ơn giáo sư đã dành thời gian trò chuyện với  Tuần Việt Nam!

Ăn vô chừng, mừng hết lối.

Ăn vô chừng, mừng hết lối.

Thứ Tư, 27/07/2011, 09:03 (GMT+7)


Trên chuyến xe vào lại Sài Gòn, tới trạm ăn tối ở Bình Định của nhà xe Bích Nga cũng như bao người khác được những người báng hàng rong rao mời các món ăn vặt. Mình đi ngay tới sộp rượu bầu đá để tìm mua vào hủ làm quà với Thầy, woh những cái bình hồ lô thật bắt mắt trông giống trong phim Thầy Thiên quá.
Một Anh cùng chiến xe cũng lay hoay ngỏ giá, có vẻ như nó rao đúng giá. Giá cả phải chăng tùy từng loại rượu và thể tích của mỗi bình, rồi mời khách dùng thử. Mình cùng Anh kia thử xem bầu đá mua ở đây nó khác như thế nào? Ôi rượu tới đâu nóng tới đó, chỉ thấy nóng và nóng mà thôi, với kinh nghiệm ít ỏi của mình cũng chưa thấy được cái đặc sắc gì trong lần uống này giống như uống cồn mà thôi. Hình thức bắt mắt, được dùng thử cùng những lời đường mật của con buôn làm mình muốn mua thêm một bầu nữa làm quà với đám bạn.
Hai anh em cùng ngỏ giá nhưng hok giảm, và hai người cũng xách trên tay mỗi người 2 bầu. Anh kia thì chơi 2 bầu lớn hơn, nó vội vàng cho ngay vào túi nilon và tính tiền.
Đinh ninh là lần vào này thì Thầy sẽ ngạc nhiên với dĩa mồi gà ta đặc biệt mà Má đã hông từ ngoài quê, cộng với hủ bầu đá này nữa thì không đâu vào đây được nữa rồi. Còn đám bạn thì thêm đĩa cầy nữa là hết sẩy.
Xuống xe chạy nhanh về phòng, hai hủ bầu đá với thương hiệu Hùng Hoàng nhìn bắt mắt mình nghĩ tới mấy chầu nhậu sắp tới. Thằng em cùng phòng xách lên ngắm nghía và tò mò lắc qua lắc lại tự nhiên có mùi rượu. Những giọt bầu đá thành dòng chảy xuống thành bình theo những cái lắc của nó. Hốt hoảng truy lùng nguyên nhân. Hai lổ kim đúng ngay vị trí cổ chai của 2 hủ rượu được dán lại bằng băng keo trong một cách cẩn thận. Giá thì cũng không cao lắm nhưng Mình đã bị gạt.
Không biết bao nhiêu hủ bầu đá đem đi lừa ở cái quán cơm này. Nhưng với những miếng băng keo trong như vậy thì bán được nhiêu hủ, giá gì mà nó thay vào đó những giọt keo 502 thì những hủ rượu ở quán này sẽ đến với nhiều người hơn. Nó không làm điều này!
NT

Văn hóa cấp một dựa cột mà nghe

Văn hóa cấp một dựa cột mà nghe

Bực bội kinh khủng
Cái máy bị lỗi, nghe cô chủ nói có Anh trong nhà làm ở công ty phần mềm nên hỏi coi giùm được không!

Ai ngờ, gặp người dở hơi giả rành, có làm gì đâu mà chẩn đoán lổi ở ổ cứng mình thì cho rằng lỗi ấy là do win để xem có cách nào khắc phục mà hok cái win và Anh ta đem đĩa book vào làm bấm chọt lung tung, mình chủ quan không để ý, lát lại nghe nói máy này sài bao lâu rầu? trả lời cũng gần 5 năm rồi Anh, vậy ah! ổ cứng bao nhiêu mà chia có một ổ đĩa thế! Anh chàng này có dở hơi hok thế, máy ai mà ổ cứng 80G mà lại chia có ổ C ông?và Anh ta cho đĩa win vào chạy reper lại, một hồi vào lại win thấy mất luôn 2 phân vùng D và E của ổ đĩa cứng, mọi tài liệu trước giờ coi như tiêu

Hỏi ra còn ngụy biện này nọ: Anh học CNTT đi làm đã 4 năm rầu, lúc trước làm ở bộ phận kỹ thuật ở BK Computer nay chuyển sang bộ phận kinh doanh. Có lẽ a đã bấm nhầm trong cái phiên bản củ này của đĩa hiren book 9.5 của em, Dữ liệu a sẽ khôi phục lại cho em được mà, còn không thì anh sẽ bồi thường lại cho em.

Bực bội xổ vài câu cho hả giận, giờ thì đang đợi thằng bạn đang ở quê vào cứu lại xem sao.

Scandal Vàng Anh và sự “xâm lăng” văn hoá

Scandal Vàng Anh và sự “xâm lăng” văn hoá

Scandal Vàng Anh-Hoàng Thuỳ Linh (VA-HTL) là câu chuyện vấp ngã đau đớn, bẽ bàng của một cô bé diễn viên trong đời sống xã hội thị trường tiêu dùng và thực dụng đầy phức tạp.

Tuy nhiên chuyện này lại đặt ra những vấn đề lớn hơn, và cũng đau hơn, sâu sắc hơn cho người lớn chúng ta, cho giáo dục mỗi gia đình, cho các nhà quản lý giáo dục, văn hoá và quản lý đất nước.

Hơn tuần nay, gần như cả xã hội lên cơn sốt và lên cơn “sốc” thật sự về sự kiện clip sex VA, nhân vật chính của bộ phim truyền hình Nhật ký Vàng Anh đang hút khách, do cô bé H.T.L hoá thân, bị phát tán lên mạng với những “pha” mà theo bình luận của nhiều bạn trẻ, còn hơn cả “sex”. Những bàn cãi đa chiều trên báo chí, trong xã hội còn chưa dứt thì tối 15-10, Đài Truyền hình VTV3 phát sóng buổi ghi hình NKVA chia tay khán giả với thời lượng khá dài, 15 phút.

Dù trước đó, bộ phim này đã gây tranh cãi gay gắt, bị nhiều lời phê phán, chỉ trích khá ầm ĩ nhưng phải đến khi những pha “sex” của VA- HTL như đổ dầu vào lửa thì bộ phim mới tắt ngóm(!).

Tuy nhiên, khi chương trình chia tay đã khép lại thì kết cục mở ra lại là hiệu ứng “ngược”, khiến người xem rất phản ứng, cho là “phản cảm”, thậm chí có tờ báo dùng bốn chữ “chương trình tôn vinh”.

Một người bạn ở Mỹ email cho tôi: “Đến Mỹ xảy ra những vụ này, đài truyền hình họ cũng không bao giờ làm thế. Đơn giản là cắt hợp đồng với diễn viên và người đại diện tuyên bố kết thúc chương trình ngắn gọn. H.T.L là “cái gì” mà phải tổ chức “chia tay trên sóng truyền hình quốc gia”?. Thật không xứng đáng trong khi bao nhiêu người tốt việc tốt còn xứng đáng gấp bội thì không có một giây để mà góp mặt…Vụ sập cầu Cần Thơ giết 54 người, nhưng “sex” VA-HTL giết cả một thế hệ. Cả triệu bạn trẻ xem hai đứa nó “diễn”, trông rất kinh hãi…”.

Còn một người đồng nghiệp lớn tuổi thì thốt lên phẫn nộ: “Thật là nhục cho cha mẹ nó. Vừa thương, vừa giận, vừa nhục!”. Và mới đây, buổi sáng 16-10 thôi, ngay sau khi chương trình chia tay VA-HTL với rất nhiều cảm thông, thương xót, thân ái vỗ về… vừa khép lại thì như một dụng ý cười cợt xúc phạm, cả xã hội lại phải tiếp tục xôn xao về clip sex mới tung ra của một kẻ giấu mặt nhưng rất trắng trợn khi thực hiện hành vi thực chất là cố tình truyền bá băng hình “sex” dài tới 16 phút, và còn “nặng đô” hơn nữa, của VA-HTL cùng nhân vật cũ, thì sự bẽ bàng, xấu hổ và đau, có lẽ bây giờ không phải là của cá nhân VA-HTL mà là của cả nhóm những người trong cuộc tối 15-10, cho dù họ làm với đầy thiện chí.

Xét cho cùng, chuyện phát sóng tối 15-10 (đã lỡ rồi), dù chẳng hay ho gì cũng vẫn là một chuyện nhỏ. Chuyện lớn hơn, từ câu chuyện xì-căng-đan VA-HTL mới là chuyện của người lớn chúng ta, chuyện lối sống thế hệ trẻ và chuyện văn hoá một đất nước thời toàn cầu hoá và hội nhập. Trước đó, khi clip sex (lần 1) mới phát tán, vẫn có rất nhiều lời bênh vực cho hành vi của VA-HTL, rằng đó là cách sống cá nhân của cô ấy, cô ấy đủ tuổi chịu trách nhiệm về hành vi, lối sống của chính mình. Đáng phê phán là kẻ “giấu mặt” đê tiện.

Điều đó cũng đúng. Nhưng lại có một lý lẽ nữa không kém phần thuyết phục, đó là một khi trở thành người của công chúng, thì lối sống cá nhân bồng bột, nông nổi hay nhẹ dạ buông thả của người nghệ sĩ, người diễn viên đôi khi lại phải trả đắt đến khắc nghiệt. Đó không còn là chuyện cá biệt. Trên thế giới hay ở VN ta cũng vậy, đã có nhiều nghệ sĩ, người nổi tiếng phải trả giá không rẻ cho cách sống hay những sơ sểnh của chính mình

Bởi tình yêu công chúng dành cho các nghệ sĩ, diễn viên càng nhiều thì sự nổi giận hay nỗi thất vọng ở họ cũng càng lớn. VA-HTL chưa phải là một diễn viên người lớn, nhưng chính vì là một diễn viên trẻ, lại là nhân vật chính đóng vai ngoan hiền của bộ phim giáo dục tuổi teen ăn khách, hấp dẫn không ít các em nhỏ nên cú “sốc”, nỗi thất vọng và sự chê trách, đặc biệt ở các bậc cha mẹ còn lớn và loang rộng hơn. Không ít các bậc cha mẹ bối rối, lo lắng vì những lời bàn tán của con em mình trước “thần tượng” của chúng bị sụp đổ.

Nhưng câu chuyện VA-HTL cũng khá điển hình phản ánh một hiện tượng xã hội phổ biến về lối sống của giới trẻ lâu nay. Đứa cháu gái tôi bảo : “Con tưởng gì, cô không biết à? Bây giờ ở Bệnh viện C, hàng ngày có những đứa con gái 15-16 tuổi đã đi nạo thai, không chỉ một lần cô nhé, mà nhiều lần!”. Còn nhiều người lớn tuổi chép miệng đầy bất lực: “Xã hội bây giờ nó thế!”.

Nghe câu nói đầy “bó tay.com”, tôi bỗng nhớ đã đọc ở đâu đó một bài báo về hội nhập, trong đó có một câu rất đáng suy ngẫm: “Mặt trái của toàn cầu hoá, của hội nhập là gì? Không phải là nỗi lo, sự thách thức tụt hậu về kinh tế, mà chính là sự “xâm lăng” về văn hoá”. Mở Từ điển Tiếng Việt thông dụng, thấy định nghĩa: “Văn hoá là những giá trị vật chất, tinh thần được con người tái tạo ra trong lịch sử… Văn hoá là đời sống tinh thần của con người…Văn hoá là lối sống, cách ứng xử…”.

Nếu đối chiếu giữa định nghĩa mang tính lý thuyết màu xám,  đầy bình yên trong từ điển với thực tiễn đời sống văn hoá vô cùng sinh động, phức tạp, đầy biến động trong xã hội ta thời kinh tế thị trường thì qủa thật, đất nước ta đã và đang đứng trước một sự “xâm lăng” văn hoá lặng lẽ, ngấm ngầm đầy hiểm hoạ, hiểm hóc trong “thế giới phẳng” của thời đại toàn cầu hoá và hội nhập. Cần hiểu đầy đủ cả hai mặt tốt xấu, hay dở của quy luật tất yếu này.

Sự hội nhập không chỉ đem tới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những thành quả chung của trí tuệ loài người về kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, có giao lưu tự nhiên, có cho và nhận nhưng cùng đó, không thể tránh khỏi những rác rưởi tanh tưởi cũng của chính con người tạo ra. Vấn đề là cơ chế quản lý chặt chẽ hay sơ hở, là quản lý “cao tay” hay “kém cỏi” của mỗi quốc gia mà thôi.

Mặt trái của toàn cầu hoá và hội nhập càng trở thành thách thức, thành sự “xâm lăng” văn hoá tự nhiên rất nhanh chóng bởi thời đại này là thời đại kết nối toàn cầu, thời đại của Internet, của những phương tiện kỹ thuật công nghệ cao. Thời đại mà khoảng cách không gian quá xa xôi giữa bên này hay bên kia bán cầu trở thành không còn ý nghĩa.

Mặt trái của toàn cầu hoá hay hội nhập càng trở nên đe doạ nền tảng văn hóa, bản sắc và những giá trị truyền thống, vừa là tinh hoa vừa là hồn cốt và đạo lý sống của mỗi đất nước, trong đó có đất nước ta nếu chúng ta không đủ mạnh, không đủ tâm và tầm để hướng đạo cho tuổi trẻ vừa biết cách thích ứng và tiếp nhận cái mới, cái văn minh, vừa biết “dị ứng” với cái xấu, cái độc hại. Cái gốc của nền tảng văn hoá ấy vẫn là giáo dục, trong đó đặc biệt giáo dục gia đình. Gia đình vốn là một môi trường giáo dục, một tế bào vừa non trẻ, vừa cỗi rễ của xã hội nhưng từ quá lâu rồi đã bị coi nhẹ, và bị lung lay nhiều nhất, rõ nhất trong thời kinh tế thị trường hiện nay.

Nền giáo dục của đất nước ta đã trải qua ba, bốn cuộc cải cách, đổi mới. Cho dù mục tiêu dạy chữ- dạy người được xây dựng rất kỹ cho từng cấp học, trong thực tế, chúng ta mới “chạm” được đến sự đổi mới về hệ thống, mới loanh quanh tranh cãi đi tranh cãi lại về xây dựng chương trình, sách giáo khoa, mô hình giáo dục, mới “chạm” được một cách gian nan chuyện dạy chữ, mà ít “chạm” được tới dạy người, với căn cốt cơ bản của khái niệm này.

Mặt khác, quan niệm dạy người cứng nhắc, hình thức, hô khẩu hiệu quá nhiều mà ít đi được vào tâm hồn tình cảm thực của tuổi trẻ, vô tình người lớn chúng ta dường như dạy cho học sinh phép “phân thân, dối trá” nhiều hơn. Hãy cứ xem các em học sinh đối phó với việc cấm đi xe máy tới trường học. Hãy cứ xem sự “phân thân” của học sinh từ tiểu học, trung học cơ sở, ở trường gặp thầy cô giáo rất ngoan, lễ phép, nhưng ra khỏi cổng trường, nói tục chửi bậy rất ghê.

Và hãy cứ xem cô bé VA-HTL. Khi cô bé “hoá thân” rất giỏi vào nhân vật VA ngoan hiền trên màn ảnh truyền hình, hướng đạo cho các em bé tuổi teen, thì phải chăng cũng chính là cô bé “phân thân” rất giỏi trong cuộc đời, khi cô ấy trả lời phỏng vấn trơn tuột về sự không quan tâm gì đến yêu đương, chỉ lo chuyện học hành. Biết đâu, sau câu trả lời đầy chất nữ sinh ấy, cô bé cười thầm với chính mình, cười những người lớn sau những câu trả lời ngoan hiền.

Có một thực tế không thể phủ nhận, khi so sánh cuộc sống của nhiều gia đình trong cơ chế thị trường hiện nay. Mức sống, vật chất có thể tương đương nhau, nhưng lối sống giữa các gia đình có thể văn minh cao thấp khác nhau, căn cứ vào nền tảng giáo dục, văn hoá của mỗi gia đình được dung dưỡng, được bồi đắp, được quan tâm coi trọng hoặc bị coi nhẹ ra sao. Bởi lối sống mới là quan trọng, là thể hiện phẩm cách, khí chất và tâm hồn con người. Nhìn vào các quốc gia cũng vậy. Cách đầu tư, quan tâm chăm sóc đến giáo dục và văn hoá đúng hướng của quốc gia nào trong thời hiện tại sẽ hiểu được sự phát triền trường tồn của quốc gia ấy trong tương lai.

Không thể phủ nhận chất lượng cuộc sống của số đông nhân dân đất nước ta, nhất là vùng đô thị trung tâm cao hơn trước rất nhiều. Đời sống con người  mỗi ngày thêm phong phú với các phương tiện kỹ thuật công nghệ thông tin cao. Nhưng sự hiện đại và phát triển cũng dường như đang đi kèm với ngày một mất đi những giá trị văn hoá truyền thống của người Việt, đặc biệt trong lối sống của lớp trẻ. Chúng ta hay nói đến xây dựng và bảo vệ một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, hay nói đến xây dựng gia đình văn hoá. Nhưng quản lý văn hoá có lẽ là một trong những sự quản lý khó nhất, đầy thách thức nhất và cũng lỏng lẻo, hời hợt, trôi nổi nhất.

Ở ngay Hà Nội thôi, đâu đâu cũng có thể thấy nhà hàng khách sạn sang trọng, nhà nghỉ thư giãn, vũ trường gắn liền với tệ nạn thuốc lắc, ma túy, gái gọi… nhan nhản như nấm sau mưa, nhưng trường học luôn thiếu đất. Trẻ em, thanh niên luôn thiếu những nơi vui chơi, sinh hoạt lành mạnh. Trong cái “thế giới phẳng” này, mọi thông tin, hình ảnh, lối sống đa chiều đều có thể được thẩm thấu qua những bộ lọc – đầu óc với nhận thức non nớt, không được giáo dục và định hướng kỹ lưỡng, trong khi mức sống hưởng thụ của nhiều gia đình khá cao, thì scăngđan VA-HTL quả là cũng không quá khó hiểu.

Ngày nay, sự “nuốt chửng” một quốc gia, một dân tộc bằng súng đạn, bằng chiến tranh giữa nước này với nước khác không mấy dễ dàng, trong mối quan hệ chằng chịt giữa lợi ích các quốc gia, các dân tộc. Nhưng sự “xâm lăng” văn hoá một cách từ từ, hoặc ngấm ngầm, hoặc công khai lại là một cách “nuốt chửng” bản sắc và hồn cốt một dân tộc, được bắt đầu bằng sự tấn công vào cách hưởng thụ và lối sống của lớp người trẻ tuổi, thế hệ vừa thích học đòi cái mới cái lạ, vừa đầy biến động trong nhận thức, tâm lý phát triển và cũng dễ đổ vỡ niềm tin. Trong hành trình hội nhập để phát triển, xin hãy tỉnh táo và chớ coi nhẹ sự quản lý văn hóa – lĩnh vực đa dạng, đa chiều đầy biến ảo…

Xì-căng-đan VA-HTL là câu chuyện vấp ngã đau đớn, bẽ bàng của một cô bé diễn viên trong đời sống xã hội thị trường tiêu dùng và thực dụng đầy phức tạp, nhưng lại đặt ra những vấn đề lớn hơn, rộng hơn và cũng đau hơn, sâu sắc hơn cho mọi người lớn, cho giáo dục mỗi gia đình, cho các nhà quản lý giáo dục, văn hoá và quản lý đất nước.

Kim Dung

Theo VietNamNet

 

 

nguồn bài viết: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Thu-tuong-phe-binh-phat-song-Chia-tay-Nhat-Ky-Vang-Anh/20755586/157/

Ngay sau scandal clipsex của diễn viên Hoàng Thuỳ Linh, Đài THVN đã tổ chức chương trình chia tay Nhật Ký Vàng Anh gây ra nhiều phản ứng trong dư luận. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức phê bình nghiêm khắc lãnh đạo Đài về vụ việc này.

’Hoàng
Hoàng Thùy Linh trong buổi “Chia tay Nhật Ký Vàng Anh”

Ngày 15/11/2007, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì cuộc họp chỉ đạo xử lý việc phát sóng chương trình Chia tay Nhật ký Vàng Anh của Đài Truyền hình Việt Nam.Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Vũ Văn Hiến đã trình bày báo cáo kiểm điểm khá thẳng thắn về trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc phát sóng chương trình Chia tay Nhật ký Vàng Anh vào lúc 22h ngày15/10/2007.

Sau khi nghe bản báo cáo, tham khảo nhiều ý kiến các đại biểu trong cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kết luận như sau:

1. Báo cáo kiểm điểm của Đài Truyền hình Việt Nam là nghiêm túc, thẳng thắn, đã nhận rõ những thiếu sót và trách nhiệm của lãnh đạo Đài và các đơn vị, cá nhân có liên quan.

Thủ tướng Chính phủ nghiêm khắc phê bình Lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam đã cho phát sóng chương trình chia tay Nhật ký Vàng Anh không có tác dụng giáo dục, gây phản ứng trong xã hội, làm ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đài truyền hình quốc gia.

’Chương
Chương trình “Chia tay Nhật Ký Vàng Anh” gây khá nhiều dư luận

2. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng giao Tổng Giám đốc Đài Truyền trình Việt Nam:+ Xem xét, có hình thức xử lý nghiêm đối với các tập thể và cá nhân có liên quan trực tiếp đến việc tổ chức, thực hiện chương trình kết thúc Nhật ký Vàng Anh.

+ Khẩn trương hoàn chỉnh Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài; bổ sung, hoàn thiện quy chế và xác định rõ chế độ trách nhiệm trong việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Đài; kiên quyết không để xảy ra những sai sót tương tự, làm ảnh hưởng không tốt đến vị thế và uy tín của Đài Truyền hình Việt Nam…

Theo Hoàng Thắng (CAND online)